Category Archives: Pages

Kinh nghiệm xây startup công nghệ của… cựu diễn viên

Từng hoạt động trong lĩnh vực diễn xuất, sân khấu, Katelyn Gleason được đánh giá là không có vẻ gì giống một nhà sáng lập startup công nghệ tiềm năng.

Tuy nhiên, hiện tại, Gleason đã là nhà sáng lập, CEO của Eligible – công ty tận dụng các APIs (tạm dịch: giao diện lập trình ứng dụng) để liên kết các hệ thống chăm sóc sức khỏe với việc thanh toán bảo hiểm cho bệnh nhân.

Eligible đã giúp hàng chục triệu bệnh nhân nắm được thông tin chi tiết về bảo hiểm cá nhân của mình và biết được cụ thể chi phí mà họ sẽ phải trả cho các dịch vụ y tế, phòng khám… là bao nhiêu.

Và dĩ nhiên, hành trình dẫn đến thành công này của Eligible không hề bằng phẳng. Katelyn Gleason đã phạm phải nhiều sai lầm, nếm trải nhiều thất bại và phải học hỏi từ đó để tiếp tục tiến lên phía trước. Dưới đây là 4 sai lầm và cũng là 4 bài học quan trọng nhất mà Katelyn Gleason đã tiếp thu được trên hành trình đầy gian nan đó:

1. Nghĩ rằng mình cần phải có một kế hoạch xuất chúng để giới thiệu sản phẩm/dịch vụ

Ngay trước khi khởi động Eligible, Gleason đã chuyển đến một căn hộ nhỏ để ở và nghiên cứu trong vòng 9 tháng về mọi thứ cần thiết trên kênh trực tuyến hoặc trong thư viện để tìm ra cách tốt nhất nhằm xây dựng nên một POC (Proof of concept – tài liệu để làm chứng cứ cho một sản phẩm hay dịch vụ tiềm năng có khả năng thành công).

Nghĩa là, Gleason phải tìm ra những giải pháp để tự động hóa các thông tin điều kiện bảo hiểm, giúp giảm thiểu chi phí, tiết kiệm thời gian, tăng tính chính xác so với các giải pháp đã có. Và hóa ra, việc tìm tòi nghiên cứu, các ý tưởng và kỹ năng tự học của Gleason đã đủ để hoàn thành quá trình này mà không cần phải tổ chức đến những buổi họp hội đồng hoành tráng.

Sau giai đoạn nghiên cứu đó, Katelyn Gleason chuyển sang giai đoạn hiện thực hóa ý tưởng. “Cuối cùng, thứ tôi đưa ra là một ứng dụng “siêu đơn giản” trên iPhone, giúp một nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể kiểm tra điều kiện bảo hiểm của bệnh nhân, và thực hiện mọi thao tác trong thời gian thực.

Là bệnh nhân, bạn cũng có thể truy cập vào thông tin bảo hiểm của mình, sau đó, ứng dụng sẽ đưa ra phản hồi về các khoản tiền bạn phải bỏ ra để chia sẻ với hãng bảo hiểm về chi phí của dịch vụ y tế, đối với từng nhà cung cấp bảo hiểm cụ thể, chẳng hạn như mức co-pay (khoản tiền cố định phải trả cho dịch vụ y tế hoặc thuốc men mỗi lần sử dụng dịch vụ), deductible (mức tiền phải tự đáp ứng trước khi hãng bảo hiểm can thiệp, tính theo từng năm), coinsurance (chi phí “đồng bảo hiểm”, tính theo tỷ lệ phần trăm, thường là 80/20, 70/30 hoặc 60/40)…”, Gleason nói.

Trong cuộc phỏng vấn với nhà đầu tư đầu tiên là Harj Taggar, khi Taggar tình cờ nói rằng ông vừa bất ngờ nhận được một hóa đơn khấu trừ từ bệnh viện mà ông sử dụng dịch vụ cách đó vài tuần, ngay lập tức Gleason đã “trình diễn” thành công ứng dụng của mình. Bằng cách kiểm tra điều kiện bảo hiểm của Taggar, Gleason đã cho ông biết chính xác những nghĩa vụ của ông đối với những giao dịch y tế tương tự trong tương lai.

“Chỉ với một chiếc điện thoại trong tay, tôi đã chứng minh được mình đã xây dựng nên một thứ có giá trị và giải quyết hiệu quả những vấn đề tồn tại trong thế giới thực”, Gleason tự hào.

Đây là một bằng chứng thực tế cho thấy, không phải lúc nào startup cũng cần phải có một kế hoạch quá phức tạp. Đôi khi chỉ cần một thư viện, một laptop và sự lao động chăm chỉ là đủ.

2. Nghĩ rằng cần phải có một nhà đồng sáng lập chuyên về công nghệ

Katelyn Gleason là nhà sáng lập duy nhất của Eligible. Tuy nhiên, đó không phải là kế hoạch ban đầu.

Sau khi gặp gỡ nhà đầu tư, Gleason đã cố gắng tuyển dụng thêm 2 kỹ sư cộng sự, vì nghĩ rằng mình không thể một mình làm được mọi thứ vì không có chuyên môn kỹ thuật.

Thực tế là, kế hoạch đó đã thất bại. Cả 2 kỹ sư được tuyển dụng để trở thành những nhà đồng sáng lập đều không thể gắn bó lâu dài. Một tháng trước Demo Day (sự kiện giới thiệu sản phẩm), Gleason cảm thấy suy sụp vì sẽ phải một mình làm tất cả mọi thứ, thậm chí còn nghĩ sẽ không tham gia sự kiện. Nhưng sau khi nhận được lời khuyên và sự cổ vũ của một người bạn là nhà đầu tư mạo hiểm Paul Graham, nhà sáng lập Eligible quyết tâm tiếp tục hành trình.

Gleason thuê ngoài những dịch vụ cần thiết và một thân một mình đến Demo Day – sự kiện giúp startup Eligible huy động được số vốn 1,6 triệu USD. Đó là thời điểm cách đây 5 năm.

3. Đánh giá thấp những kỹ năng phi kỹ thuật

Katelyn Gleason không phải là một chuyên gia về code, nhưng cuối cùng, chính những kỹ năng phi kỹ thuật đã giúp Gleason vượt qua nhiều thử thách. “Tôi tin rằng sự kiên cường và quyết tâm là các đặc tính quan trọng nhất ở những người thành công, bất kể họ làm trong lĩnh vực gì. Tôi đã dồn hết tâm sức để biến tầm nhìn và công ty của mình thành hiện thực. Hành trình này nhiều lúc rất cô đơn và đáng sợ, nhưng niềm tin vào bản thân đã cho tôi thấy được thành quả ngày hôm nay”, CEO Eligible khẳng định.

Bên cạnh đó, Gleason còn rất xem trọng khả năng đồng cảm. “Tôi xây dựng Eligible để giải quyết vấn đề cho khách hàng và các đối tác. Tôi tìm hiểu những điều họ cần bằng cách lắng nghe họ, học hỏi về họ và về doanh nghiệp của họ. Tôi luôn được truyền cảm hứng để cố gắng giúp đỡ mọi người. Tôi được bảo rằng mình giỏi bán hàng, nhưng tôi tin rằng những gì tôi làm là chứng minh cho mọi người thấy rằng tôi quan tâm đến việc giúp đỡ họ. Và với Eligible, tôi có thể và tôi sẽ giúp họ, không chỉ là khách hàng, mà còn các nhà cung cấp, nhà đầu tư, nhân viên của tôi nữa”, Gleason chia sẻ.

4. Đánh giá thấp tầm quan trọng của việc giao tiếp bằng ngôn ngữ kỹ thuật với các kỹ sư

Truyền thông, giao tiếp là yếu tố quan trọng giúp một đội ngũ, một công ty phát triển. Nghĩa là dù không có các kỹ năng trong lĩnh vực công nghệ, nhà sáng lập vẫn nên hiểu và sử dụng hiệu quả các thuật ngữ giúp cho các kỹ sư có thể hiểu được.

Gleason thừa nhận rằng phải mất một thời gian dài để nhận ra điều đó: “Tôi nghĩ rằng tôi chỉ cần nói những điều mình muốn đạt được, bằng ngôn ngữ phi chuyên môn, và đội ngũ của tôi sẽ nắm bắt hoàn toàn những ý tưởng đó và biến nó thành hiện thực”.

Dĩ nhiên sau đó, cách làm này đã được chứng minh là không hiệu quả. Cả 2 bên gần như có những mục tiêu trái ngược nhau, trong khi trên thực tế, họ thực sự muốn cùng một kết quả.

Cuối cùng, Gleason nhận ra: “một tầm nhìn cần phải được truyền đạt chính xác, trước khi nó biến thành một nhiệm vụ, và sự giao tiếp hiệu quả không được đo bằng những điều chúng ta nói, mà bởi mức độ chính xác khi thông điệp được tiếp nhận”.

“Khi tôi nhận ra mình đang phải quản lý vi mô để đảm bảo rằng tầm nhìn đã đặt ra đang được mọi người bám sát, tôi biết rằng cả vấn đề và giải pháp đều nằm ở mình”, Gleason thừa nhận.

Khi đó, Gleason đã chủ động sửa chữa sai lầm bằng cách đầu tư thời gian để tìm hiểu và học hỏi vốn từ vựng chuyên môn của các nhân viên kỹ thuật. Cách làm này đã giúp nữ CEO trẻ và đội ngũ kỹ sư Eligible tin tưởng và gắn kết với nhau hơn, vì họ biết rằng họ đang làm việc cho cùng một mục tiêu và có những ưu tiên giống nhau.

“Chúng tôi đã gặt hái được những thành quả vượt xa mọi tưởng tượng ban đầu. Từng là một vấn đề rắc rối, bây giờ, nó đã trở thành một phần thưởng”, Katelyn Gleason nói.

Làm tướng nước lớn hay vua nước nhỏ?

Sự nghiệp của một đời người gói gọn trong hai lựa chọn: làm thuê hoặc làm chủ. Mỗi lựa chọn đem đến cơ hội và thách thức riêng. Không có lựa chọn tốt hay xấu, mà chỉ là lựa chọn phù hợp với giá trị bản thân, niềm vui và lẽ sống của bạn.

Nuôi giấc mộng dài

Đối với những ai đã đạt những thành công nhất định tại các tập đoàn đa quốc gia, cơ hội làm chủ dường như là một lựa chọn hấp dẫn và hợp lý. Bởi họ đã được đào tạo bài bản tại những công ty tiên tiến trên thế giới. Với những kinh nghiệm, kiến thức có được, không gì có thể ngăn cản họ khởi đầu sự nghiệp mới cho riêng mình.

Vị trí đặt quảng cáo

Mười năm trở lại đây, nhiều chuyên gia cao cấp, cấp quản lý tại các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam như PwC, KPMG, HSBC, Unilever, Shell, Prudential, PepsiCo… ồ ạt “ra riêng”, tạo thành làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ. Nhưng chỉ sau vài năm, số người bám trụ được ngày càng ít.

Không ít người trong số đó từ bỏ giấc mộng khởi nghiệp, quay lại công việc làm thuê, một số khác thì hoạt động cầm chừng. Ngay cả những người từng một thời vang bóng khi làm cho tập đoàn đa quốc gia cũng đang nỗ lực tìm lối đi riêng.

Sau những hăm hở ban đầu, bạn chợt nhận ra rằng con đường khởi nghiệp đầy chông gai, chứ không chỉ toàn hoa hồng như bạn mộng tưởng. Nói gì thì nói, bạn đã quen với cuộc sống ở tập đoàn, đi đến đâu cũng được đối tác săn đón, khiến bạn đôi khi quên mất không biết người ta tốt vì bạn hay vì cái tên quá lớn của công ty bạn đang làm.

Bạn toàn làm cho khách hàng lớn. Bạn mạnh tay sáng tạo, vạch ra những kế hoạch tầm cỡ bằng ngân sách tiền tỉ của công ty. Bạn làm việc trong văn phòng sang trọng đặt tại tòa cao ốc cao cấp ngay khu trung tâm thành phố. Bạn ở khách sạn hạng sang trong những chuyến công tác nước ngoài. Bạn thấy mình ở một tầm cao mới khi được bao bọc bởi đội ngũ nhân sự hùng hậu, đầy rẫy nhân tài mà công ty đã bỏ ra một khoản lương bổng, trợ cấp hấp dẫn để chiêu mộ về.

Ngày bước ra khởi nghiệp, bạn bỏ lại tất cả những thứ đó đằng sau. Bạn từ bỏ cái mác “tập đoàn” và gắn vào cái mác “SME” (công ty vừa và nhỏ). Bạn vật lộn với số tiền ít ỏi có được. Bạn loay hoay tìm chỗ đứng trong thị trường đầy những công ty lớn mạnh hơn. Bạn cảm thấy cô đơn tột cùng khi phải một mình bươn chải.

Bạn sẽ nếm trải cảm giác bị tổn thương khi người ta né tránh hoặc nghi ngờ công ty của bạn. Nói cho cùng, khởi nghiệp có nghĩa là “mới”, mà hễ cái gì mới thì đều làm người ta bất an. Khi làm chuyên viên tư vấn cho một trong năm tập đoàn kiểm toán hàng đầu thế giới, bạn chỉ là một phần rất nhỏ trong guồng máy khổng lồ với hàng ngàn nhân viên trên khắp thế giới. Nhưng khi làm chủ doanh nghiệp, bạn là tất cả đối với công ty. Hai vị thế hoàn toàn khác nhau, và người ta có quyền nghi ngờ năng lực công ty bạn lập ra.

Bí kíp khởi nghiệp

Thay vì ngồi than thân trách phận, nuối tiếc thời huy hoàng ngày xưa, đã đến lúc bạn rũ bỏ ánh hào quang cũ và xông pha tạo ra vầng hào quang cho riêng mình. Sau đây là 10 điều tích lũy từ những ngày tháng long đong khởi nghiệp của những nhà quản lý trẻ. Hy vọng những điều này có thể giúp con đường khởi nghiệp của bạn nhẹ nhàng, ít chông gai hơn.

1. Nhỏ không có nghĩa là yếu. Lớn không có nghĩa là mạnh. Nếu như đế chế tài chính hùng mạnh Lehman Brothers với bề dày lịch sử 158 năm còn bị sụp đổ thì không có lý do gì để bạn mặc cảm, tự ti với thân phận “doanh nghiệp nhỏ”. Thực tế cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cho thấy một điều: nơi lớn nhất không còn là nơi an toàn nhất!

2. Đừng buồn tủi khi người ta chỉ săn đón công ty lớn mà lơ là công ty nhỏ. Khởi nghiệp có nghĩa là “bắt đầu từ số 0”. Nếu bạn không quen chịu cực khổ, cũng không quen bị người khác xem thường, công việc khởi nghiệp có lẽ không dành cho bạn.

3. Đừng bám víu vào những thành công trong quá khứ. Kiếm tiền trong hoàn cảnh thuận lợi, được tập đoàn hậu thuẫn mọi thứ thì nhiều người làm được. Nhưng kiếm tiền trong hoàn cảnh khó khăn, chịu cảnh thiếu thốn trăm bề (thiếu tiền, thiếu người tài, thiếu thị trường…), thiên hạ dễ có mấy ai. Người làm được điều đó mới là nhà khởi nghiệp tài ba.

4. Đừng dằn vặt nếu chẳng may bạn phạm sai lầm hết lần này đến lần khác. Richard Brandson, doanh nhân huyền thoại người Anh, có câu nói nổi tiếng: “Lần đầu làm một điều gì đó, bạn sẽ phải đối diện với vô vàn thử thách, và không có gì đảm bảo thành công. Bạn sẽ chẳng bao giờ biết chuyện gì có thể xảy ra. Tất cả chỉ là thử nghiệm… Điều quan trọng là, khi không thể tìm ra thành công trong một cơ hội, bạn chỉ cần chuyển sang cơ hội khác”.

5. Đừng nản lòng khi khách hàng thờ ơ với sản phẩm của công ty. Sản phẩm đối với người này là rác, đối với người kia là vàng. Đối với người tiêu dùng Mỹ, xe Buick của hãng GM đại diện cho hình ảnh ù lì, cũ kỹ. Nhưng đối với người tiêu dùng Trung Quốc, Buick lại là biểu tượng của sự sang trọng. Không có gì lạ khi năm 2009 GM bán gần 500.000 chiếc Buick tại Trung Quốc, gấp 5 lần doanh số bán xe này tại Mỹ. Hãy tìm cho ra nhóm khách hàng xem trọng sản phẩm của công ty bạn!

6. Đừng bức xúc khi khách hàng chẳng ngó ngàng gì đến tâm tư, cảm xúc của bạn. Kinh doanh có nghĩa là “cho đi trước, nhận lại sau”. Khi hiểu đúng mong muốn, nguyện vọng của khách hàng và đáp ứng được điều đó, phần thưởng dành cho bạn chính là lợi nhuận.

7. Đừng để cảm xúc làm lu mờ lý trí. Người kinh doanh khôn ngoan không quyết định vì thích hay ghét, mà vì điều đó đúng hay sai.

8. Hãy can đảm nhưng đừng liều lĩnh. Tính toán rủi ro nặng nhẹ, và chỉ chọn những rủi ro bạn chấp nhận được.

9. Tin mình trước rồi hãy tin người. Bói toán có thể làm bạn an tâm trong chốc lát. Lời đường mật của đối tác có thể khiến bạn bay bổng. Nhưng chỉ khi tin vào chính mình, hiểu rõ mình mạnh, yếu ở điểm nào, bạn mới biết chính xác cơ hội nào nên nắm lấy, rủi ro nào nên tránh.

10. Tránh chỗ thừa mứa. Đánh vào chỗ thiếu thốn. Bán cái cần nhiều thì dễ bán. Bán cái cần ít thì khó bán. Bán cái chẳng ai cần thì chỉ bán trong tuyệt vọng.

Chúc bạn khởi nghiệp thành công!

Vì sao startup không nên truyền thông quá sớm?

Bị “ám ảnh” bởi sự bùng nổ của các chiến dịch truyền thông, phần lớn startup đều ra sức đầu tư để quảng bá trước khi họ thực sự sẵn sàng ra mắt người dùng. Và đây là lý do họ thất bại.

Bài học từ Ello

Mùa Thu năm 2014, Facebook đối diện với cơn bão phản ứng từ người dùng do áp dụng chính sách sử dụng tên thật trên Facebook và sau đó bán lại thông tin của người dùng. Khi đó, một mạng xã hội mới với tên gọi Ello đã nhanh chóng chớp thời cơ.

Ello ra đời với cam kết cho phép quảng cáo miễn phí, và không bao giờ bán dữ liệu của người dùng, vì “Bạn không phải là một sản phẩm”. Thời điểm ra mắt không thể hoàn hảo hơn. Báo chí gọi Ello là “mạng xã hội chống Facebook”. Kết quả là mỗi giờ có 30.000 người dùng mới gửi yêu cầu tham gia mạng xã hội Ello.

Song, thành công này nhanh chóng có vị chát. Khi cộng tác với một vài nhà thiết kế và lập trình tại Vermont, Ello không có đủ thiết bị để xử lý một lượng truy cập lớn như vậy và gây ra nhiều trải nghiệm xấu cho người dùng. Hơn hết, trang Ello vẫn chỉ mới định hình phần khung và nhiều người dùng khi tham gia lại mong đợi những tính năng tương tự như Facebook đã bị thất vọng. Dĩ nhiên, thành công của Ello không kéo dài.

Câu chuyện của Ello cho thấy một thực tế có thể xảy ra khi một startup đạt được thành công về truyền thông vượt quá khả năng vận hành của họ ở thời điểm đó.

Truyền thông: cần nhưng không quá khẩn

Hầu hết những nhà sáng lập muốn đầu tư một phần vào việc phủ sóng truyền thông. Họ biết rằng truyền thông rộng rãi có thể là một tín hiệu sớm, quan trọng trong quá trình phát triển kinh doanh. Truyền thông giúp thu hút các khách hàng, đối tác, nhân viên và các nhà đầu tư mà công ty cần để “cất cánh”.

>> 9 bước lập kế hoạch truyền thông hiệu quả

Các nghiên cứu cũng hậu thuẫn cho luận điểm này. Cụ thể, HBR đã nghiên cứu 60 công ty được hậu thuẫn bởi các nhà đầu tư mạo hiểm và phát hiện ra rằng những startup thành công đều gần như thu hút được nhiều đơn vị truyền thông đưa tin về hoạt động trong suốt quá trình xây dựng. Các công ty thành công được nhắc đến trong nhiều bài viết, tiêu đề lớn của các nhà xuất bản, các đơn vị đưa tin hơn so với các công ty thất bại.

Nghiên cứu này có thể gia tăng thêm áp lực với các startup trong quan điểm cần đổ tiền của vào chiến lược truyền thông càng sớm cáng tốt. Thực tế không đơn giản như vậy.

Truyền thông là yếu tố quan trọng trong xây dựng doanh nghiệp, nhưng sự thu hút truyền thông phải được định hướng bởi các tăng trưởng thực sự của doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh cốt lõi.

Khi các nhà sáng lập “mời gọi” truyền thông từ quá sớm, họ sẽ không thể cung cấp kịp các sản phẩm, dịch vụ theo chất lượng đã hứa với khách hàng.

Một trong những điều đầu tiên các doanh nghiệp mới cần làm là phác thảo một câu chuyện rõ ràng về công ty, như: vì sao công ty được thành lập, mục tiêu công ty là gì. Đây là những nền tảng cơ bản để thu hút và động viên nhân viên, phát triển chiến lược cũng như trình bày trước khách hàng và nhà đầu tư.

>> Xây dựng thông điệp truyền thông trong khủng hoảng

Các câu hỏi này cũng là bước đầu tiên để phát triển cách tiếp cận truyền thông của bạn, nhưng nó chưa cần thiết khi bạn chưa xác định rõ các quy trình làm việc, dây chuyền cung ứng hoặc mô hình kinh doanh cụ thể.

Thời điểm tốt nhất để bắt đầu bước ra công chúng là khi công ty của bạn đạt được một cột mốc phát triển nhất định, như: thu hút được khách hàng mới hoặc ra mắt sản phẩm. Tập trung nghiên cứu các mục tiêu của công ty và quảng bá sau khi bạn đã đạt được chúng. Khi bạn được truyền thông chú ý, hãy lan tỏa rộng rãi và đảm bảo rằng các đối tác mục tiêu (nhà đầu tư, đối tác kinh doanh…) đều thấy được chúng.

Đừng lo lắng quá mức về việc các tin tức xuất hiện tiêu cực, vì theo nghiên cứu của HBR, sự quan tâm của báo chí là dấu hiệu tốt cho thấy vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Chẳng hạn, các rắc rối về lạm dụng tình dục hoặc lối hành xử của tài xế Uber sẽ không bị báo chí thế giới đề cập nếu như Uber không phải là người đứng đầu của mảng kinh doanh này.

Một bí quyết quan trọng khác với các startup vừa hình thành: nên cẩn trọng trước khi quyết định hợp tác với các công ty truyền thông hoặc nhân sự truyền thông. Những người thực sự giỏi thì bạn không đủ tiền để trả mà những người đề nghị hỗ trợ miễn phí thì nên tránh.

Tóm lại, mọi công ty đều cần chiến lược truyền thông để xây dựng nhận thức và phát triển doanh số, song đây chỉ là một mảnh ghép trong bức tranh tổng thể. Các hoạt động truyền thông nên đồng nhất với mức độ phát triển thực sự của công ty. Các công ty thành công ngoài việc kể chuyện hiệu quả, họ cũng xây dựng cả những nền tảng bền vững để kể chuyện trong tương lai.

Tỷ phú giàu nhất Hong Kong và bí quyết “hốt bạc” trong ngành bán lẻ

Trong khi ngành bán lẻ truyền thống đang “chết” dần thì Tập đoàn của Tỷ phú giàu nhất Hong Kong hiện nay vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khủng khiếp, mỗi ngày lại mở mới 4 cửa hàng.

Chính sách “không nợ”

Có lẽ một trong những yếu tố quan trọng nhất mang lại thành công của tỷ phú Lý Gia Thành là niềm đam mê dành cho công việc và chính sách “không nợ”.

Tỷ phú Hong Kong Lý Gia Thành có thể không còn là người giàu nhất châu Á, nhưng ông vẫn đang nắm giữ khối tài sản trị giá hơn 20 tỷ USD.

Lý Gia Thànhg phải gánh vác trách nhiệm lo kinh tế cho gia đình từ khi còn nhỏ. Sau khi gia đình ông từ miền Nam Trung Quốc di cư sang Hong Kong trong Thế chiến thứ 2, cha ông qua đời vì bệnh lao. Lý Gia Thành phải bỏ học khi chưa đầy 16 tuổi để làm công nhân tại một nhà máy.

Trong 4 năm dưới sự chiếm đóng của quân Nhật, ông gửi 90% số tiền kiếm được về phụ giúp mẹ ông. Có lẽ thành công khi còn trẻ với tư cách lao động chính trong nhà đã dạy cho ông những giá trị lớn, tạo tiền đề cho sự nổi tiếng về lòng bác ái của ông ngày hôm nay.

Lý Gia Thành chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những kinh nghiệm làm việc khi còn là một đứa trẻ. “Bất kể bạn khỏe mạnh và tài năng đến đâu, nếu bạn không có một tấm lòng rộng lượng và hào hiệp, bạn sẽ không bao giờ thành công”, ông Lý nói.

Ông Lý đã chứng tỏ là người có tầm nhìn và một lãnh đạo tài ba khi khai trương nhà máy đầu tiên vào năm 1950 ở độ tuổi 22. Nhà máy, Cheung Kong Industries, sản xuất hoa nhựa. Ông dự đoán rằng ngành nhựa và chất dẻo sẽ bùng nổ, và ông đã đúng.

Với số vốn vỏn vẹn 50.000 USD cùng với quyết tâm học hỏi và tìm hiểu về những xu hướng mới nhất, ông Lý Gia Thành đã thành công với Cheung Kong. “Mối tương quan giữa kiến thức và thương mại – chìa khóa của thành công – ngày càng chặt chẽ hơn bao giờ hết”, ông Lý chia sẻ.

Mặc dù phải bỏ học từ khi còn nhỏ và chưa bao giờ có bằng đại học, song ông Lý luôn luôn là “kẻ ngốn sách” và cho rằng thành công của ông là nhờ khả năng tự học. Chẳng hạn ông tự mình hoàn tất sổ sách kế toán của Cheung Kong trong năm đầu tiên hoạt động mà không có một chút kiến thức nào về lĩnh vực này cả – chỉ đơn giản là ông tự học từ sách giáo khoa mà thôi.

Cùng với kiến thức và hiểu biết sâu sắc, tỷ phú giàu nhất Hong Kong luôn coi lòng trung thành và danh tiếng là chìa khóa để thành công. Trong cuộc phỏng vấn năm 2006 với tạp chí Forbes, ông nói “Bất kỳ khi nào tôi nói “có” với một người nào đấy, đó chính là bản hợp đồng”.

Năm 1956, Lý đã từ chối một đề nghị có thể kiếm cho ông thêm 30% lợi nhuận (và cho phép ông mở rộng nhà máy) chỉ vì ông đã “hứa miệng” với một khách hàng khác. Giờ đây, ông vẫn luôn tuân thủ nguyên tắc này, kể cả khi điều đó đồng nghĩa với việc mất tiền.

Tầm nhìn xa trông rộng của ông Lý Gia Thành là với ngành nhựa và chất dẻo. Sau đó, ông một lần nữa thành công khi lao vào hoạt động phát triển bất động sản năm 1979 với việc mua lại Hutchison Whampoa – tạo tiền đề cho ông trở thành ông trùm bất động sản trước khi thị trường Hong Kong bùng nổ.

Tuy chủ yếu nổi tiếng với tư cách nhà phát triển bất động sản, song các công ty của Lý Gia Thành đang kiểm soát 70% hoạt động cảng biển và phần lớn hoạt động viễn thông và dịch vụ công tại Hong Kong. Ông cũng sở hữu phần lớn cổ phần tại Husky Energy, công ty của Canada. Ông đầu tư tài sản và quyền lực của mình vào nhiều lĩnh vực và vùng địa lý khác nhau, cho thấy ông không sợ phải học và trải nghiệm những điều mới mẻ.

Vị tỷ phú này bố trí cổ phần đầu tư một cách có chiến lược nhằm đảm bảo an toàn bất chấp nền kinh tế có biến động ra sao. “Tôi không quá lạc quan khi thị trường tăng trưởng tốt và cũng không quá bi quan khi thị trường ảm đạm”, ông nói.

Tuy nắm giữ nhiều cổ phần, song tính tiết kiệm – vốn mang tính sống còn trong thời thơ ấu của Lý – vẫn còn đi theo ông trong nghề nghiệp hiện tại. Chính sách “không vay nợ” của ông có nghĩa là các công ty hoạt động sao cho càng vay ít nợ càng tốt và bản thân Lý mua bất động sản bằng tiền kiếm được nhằm duy trì mức nợ cá nhân bằng 0.

Thói quen tài chính lành mạnh đã giúp ông Lý Gia Thành có được “tự do” để đầu tư vào công nghệ như một “sở thích được ăn cả, ngã về không” thông qua Horizons Ventures Ltd. Người bạn cũ của ông, Solina Chau, đang điều hành quỹ công nghệ này.

Lý Gia Thành là một trong những nhà đầu tư quy mô lớn đầu tiên đổ tiền vào Facebook. Ông chỉ đầu tư vào công nghệ mà ông coi là “đột phá” và nâng cao khả năng cạnh tranh của ông.

Bên bạnh đó, vị tỷ phú này cũng thích đổ nguồn “tiền dự phòng” (mad money) vào loại hình đầu tư đột phá này thay vì những thứ hữu hình.

Có lẽ một trong những yếu tố quan trọng nhất mang lại thành công của Lý là niềm đam mê ông dành cho công việc. Năm 2010, ông nói với tạp chí Forbes “Niềm vui thích quan trọng nhất đối với tôi là làm việc chăm chỉ và kiếm nhiều lợi nhuận hơn”.

“Hốt bạc” trong ngành bán lẻ nhờ chính sách khôn khéo

Gần đây, báo chí tràn ngập các câu hỏi về khả năng sống sót của ngành bán lẻ truyền thống sau khi gã khổng lồ thương mại điện tử Amazon liên tiếp có những động thái tấn công vào các thị trường truyền thống. Nhưng, chẳng biết ngành bán lẻ truyền thống sẽ “chết” ở đâu, tại Hong Kong (Trung Quốc), Tập đoàn A.S. Watson của tỷ phú Lý Gia Thành vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng như mơ, mỗi ngày lại mở mới 4 cửa hàng.

Bloomberg cho biết, chuỗi cửa hàng bán sản phẩm chăm sóc sức khỏe và mỹ phẩm Watsons của Tập đoàn A.S. Watson có tỷ suất lợi nhuận còn lớn hơn cả gã khổng lồ Amazon.com. Năm 2016, tỷ suất lợi nhuận của chuỗi Watsons tại Trung Quốc đạt 22%, cao nhất trong các thị trường hoạt động của hãng này.

Trong một cuộc phỏng vấn với Bloomberg, bà Malina Ngai – COO Watson Group- chủ sở hữu của 2 chuỗi bán lẻ mỹ phẩm và chăm sóc sức khỏe lớn nhất Hong Kong Watsons và Superdrug cho biết năm nay công ty dự kiến sẽ mở mới 1.400 cửa hàng trên toàn cầu, trong đó hơn 1/3 là ở Trung Quốc. Nhu cầu ở đại lục rất cao. Trung bình, chỉ chưa đầy 1 năm, tập đoàn bán lẻ mỹ phẩm và chăm sóc sức khỏe Watson Group trực thuộc CK Hutchison Holdings Ltd. đã có thể thu về vốn đầu tư ban đầu.

Động thái mở rộng của Watson trái ngược với quyết định rút lui của Marks & Spencer Group khỏi thị trường đại lục và tình trạng ế ẩm của nhiều thương hiệu xa xỉ như Louis Vuitton và Burberry. Năm ngoái, lợi nhuận của Watson tại Trung Quốc đạt 22% doanh thu – cao nhất trong số tất cả các thị trường của Watson.

Bí quyết nào đã giúp cho chuỗi bán lẻ của Watson không những đứng vững mà còn liên tục tăng trưởng, trong bối cảnh bức tranh bán lẻ ở nhiều nơi trên thế giới đã nhiều phần ảm đạm?

Câu trả lời nằm ở cách chọn địa điểm và tiền thuê mặt bằng. Watson chọn những nơi có lưu lượng giao thông cao như ga tàu và các tuyến phố, thay vì tìm đến các trung tâm thương mại. Điều này giúp công ty giảm thiểu chi phí vận hành ở Trung Quốc – nơi mà giá thuê mặt quá đắt đỏ đã trở thành một trong những nỗi ám ảnh của các nhà bán lẻ.

Theo Euromonitor, Watson hiện nay có 3.000 cửa hàng tại hơn 430 thành phố ở Trung Quốc – trở thành người chơi lớn nhất với gần 30% thị phần bán lẻ dược phẩm.

Tuy nhiên, Watson không chỉ hoạt động duy nhất trong mảng bán lẻ và thành công của hãng này không hề kém cạnh gì so với gã khổng lồ thương mại điện tử lớn nhất Trung Quốc là Alibaba. Bà Ngai cho biết trong 3 năm tới, Watson dự định sẽ đầu tư 160 triệu USD để cải thiện nền tảng công nghệ, nâng cao năng lực phân tích bộ dữ liệu lớn và xây dựng kho mới. Mục tiêu tăng trưởng doanh thu mảng online của Watson trong 3 năm tới ít nhất là 40%.

A.S. Watson, là mảng kinh doanh bán lẻ của tập đoàn Hutchison Holdings thuộc sở hữu của tỷ phú giàu nhất Hồng Kông Lý Gia Thành, mang về doanh thu 20 tỷ USD mỗi năm.

Đế chế kinh doanh của tỷ phú Lý Gia Thành

Đế chế kinh doanh của tỷ phú này bao gồm nhiều lĩnh vực, từ bất động sản, cảng biển, điện thoại di động, siêu thị, cho thuê máy bay đến dầu mỏ. CK Hutchison Holdings, công ty lớn nhất của tỷ phú Lý Gia Thành (nếu xét theo tài sản phi bất động sản) có hoạt động ở 56 quốc gia tính đến cuối năm 2015.

Cảng biển

Tỷ phú Lý Gia Thành đầu tư vào 48 cảng biển ở 25 quốc gia, bao gồm cả hệ thống cảng ở 2 đầu kênh đào Panama.

Bán lẻ:

Từ Watsons ở Châu Á đến Kruidvat ở Châu Âu, lĩnh vực bán lẻ của tỷ phú Lý Gia Thành có tất cả 12.000 cửa hàng ở 25 thị trường.

Cơ sở hạ tầng

Tỷ phú Lý Gia Thành đầu tư vào lĩnh vực nước sạch, gió, khí đốt, đường sắt và cho thuê máy bay.

Năng lượng

Tỷ phú Lý Gia Thành sở hữu công ty năng lượng Husky Energy ở Canada có hoạt động ở Mỹ và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Viễn thông

Công ty của tỷ phú Lý Gia Thành cung cấp dịch vụ viễn thông ở Châu Âu và Châu Á.

Các lĩnh vực khác

Các khoản đầu tư khác của tỷ phú Lý Gia Thành là trong lĩnh vực y tế và xử lý nước thải.

Mặc dù có trụ sở ở Hong Kong, CK Hutchison kiếm lợi nhuận chủ yếu từ Châu Âu. Anh là thị trường lớn nhất của CK Hutchison ở Châu Âu, mang lại 34% lợi nhuận ở khu vực cho CK Hutchison.

Nhà đầu tư thiên thần

Quỹ đầu tư mạo hiểm Horizons Ventures của tỷ phú Lý Gia Thành đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp và rất nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp nhận được vốn từ Horizons Ventures đã vô cùng thành công. Điển hình là:

Facebook – mạng xã hội: nhận được 120 triệu USD trong 2 năm 2007 và 2008. IPO năm 2012.

Spotify – dịch vụ âm nhạc trực tuyến lớn nhất thế giới: tỷ phú Lý Gia Thành đầu tư vào năm 2009.

Airbnb – sàn giao dịch chỗ ở: đầu tư của Lý Gia Thành vào Airbnb được công bố trong một bài viết năm ngoái.

Waze – ứng dụng thông tin giao thông: Lý Gia Thành đầu tư vào năm 2011, được Google mua lại năm 2013.

Siri – ứng dụng nhận diện giọng nói: được Apple mua lại năm 2010.

Skype – công ty dịch vụ viễn thông trực tuyến: Lý Gia Thành đầu tư vào năm 2005, được Microsoft mua lại năm 2011.

DeepMind – doanh nghiệp khởi nghiệp về trí thông minh nhân tạo: được Google mua lại năm 2014.

Blockstream – quỹ đầu tư vào tiền ảo Bitcoin: Lý Gia Thành rót vốn vào tháng 2/2016.

Humin – ứng dụng danh bạ điện thoại: được Tinder mua lại năm 2016.

Impossible Foods – công ty sản xuất thịt giả và bơ hoàn toàn từ thực vật: Lý Gia Thành rót vốn vào năm 2015, đồng thời nhận được vốn từ nhà sáng lập ra Microsoft Bill Gates.

Ambidio – công nghệ âm thanh: nhà soạn nhạc nổi tiếng Will.i.am (William James Adams Jr) cũng rót vốn vào doanh nghiệp khởi nghiệp này.

Slack – nền tảng phát triển ứng dụng làm việc cộng tác: Lý Gia Thành rót 50 triệu USD đầu tư trong năm 2015.

Làm việc tại nhà: Lợi bất cập hại

Năm ngoái, Richard Laermer – chủ một công ty quan hệ công chúng tại New York quyết định cho nhân viên làm việc ở nhà. Nhưng rất nhanh chóng, ông nhận ra đó là một sai lầm.

“Chúng ta thuê những người trưởng thành và họ thì không nên bị trói chân ở văn phòng 5 ngày/tuần”, Laermer từng nghĩ như thế. “Tôi luôn tự dối mình rằng bạn có thể làm việc ở bất cứ đâu, miễn là bạn thực sự làm được việc”, ông nói.

Laermer kể, nhân viên của ông tận dụng quy định này một cách nhiệt tình. Một người biến mất hàng giờ liền. Một người khác không liên lạc với các đồng nghiệp cả ngày. Cuối cùng, một người đã từ chối đến cuộc họp vì cô ấy có kế hoạch đến Hamptons – một vùng khác ở New York. “Đó là điều đáng tức giận nhất mà tôi từng nghe trong nhiều năm”, ông nói. Sau 10 tháng áp dụng, ông hủy bỏ đặc quyền đó và buộc mọi nhân viên phải đến văn phòng mỗi ngày.

“Làm việc từ xa” là một thuật ngữ miêu tả một người được làm bất cứ đâu bên ngoài văn phòng truyền thống, bùng nổ trong 20 năm qua, nhưng nhiều công ty đã bắt đầu suy nghĩ lại về chính sách quá dễ dãi này. Công việc linh hoạt về thời gian và địa điểm hiện vẫn phổ biến ở nhiều tổ chức, nhưng hầu hết các công ty vẫn muốn nhân viên dành nhiều thời gian hơn cho công việc.

Hơn 60% các tổ chức tham gia khảo sát của Society of Human Resource Management cho biết họ cho phép một số hình thức làm việc từ xa, tăng 20% so với năm 1999. Hầu hết các nhà sử dụng lao động cho phép nhân viên làm việc tại nhà, có kết nối internet trong trường hợp bất khả kháng, như phải trông chừng thợ sửa ống nước hay chờ đợi kiện hàng quan trọng.

Công nghệ hiện đại như chương trình chat hay các phần mềm cộng tác khiến làm việc từ xa trở nên khả thi hơn trong một vài thập kỷ gần đây. Đồng thời, cho phép nhân viên được làm việc từ xa cũng là một yếu tố hấp dẫn để thu hút hay giữ chân nhân tài, đồng thời giúp công ty cắt giảm chi phí thuê văn phòng đắt đỏ. Việc không giữ nhân viên cố định trong văn phòng cũng phù hợp với tính chất công việc hiện đại, khi nhân viên được tổ chức theo nhiều nhóm khác nhau để giải quyết nhiều dự án.

Ngày nay, chỉ 38% công ty được tổ chức theo chức năng với những nhân viên được phân nhóm theo loại công việc, khảo sát của Deloitte năm 2016 cho thấy. Hầu hết các công ty đã tổ chức các nhóm nhân viên hợp tác với nhau và thay đổi thường xuyên để hoàn thành các dự án.

Deloitte dẫn chứng một tổ chức ở California đã có đến 30.000 team được thay đổi liên tục. “Tôi nghĩ đó là lý do chúng ta nhìn thấy sự trở lại của khái niệm làm việc từ xa”, Erica Volini – nhà lãnh đạo nguồn nhân lực tại Deloitte cho biết, “Tuy nhiên để làm việc theo nhóm, làm việc từ xa, bạn cần mức độ hợp tác cao hơn”.

Một báo cáo năm 2012 của IBM cho thấy chế độ làm việc linh hoạt đã giúp Công ty cải tiến trong năng suất và tiết kiệm chi phí. Thế nhưng, đầu năm nay, gã công nghệ khổng lồ này đã nói với 2.000 nhân viên rằng họ không còn được làm việc tại nhà nữa mà phải chuyển sang chế độ làm việc ở văn phòng thường xuyên hơn. Đối diện với 20 quý liên tiếp sụt giảm lợi nhuận, IBM hy vọng việc đưa nhân viên trở lại với nhau sẽ giúp họ làm việc nhanh hơn, năng suất hơn, và sáng tạo hơn.

Văn phòng trống trải khi nhân viên được làm việc tại nhà

Việc chấm dứt cho phép nhân viên được làm việc từ xa sẽ vấp phải thách thức: làm sao để giữ cho nhân viên được hạnh phúc? Volini của Deloitte nói rằng điều này sẽ khiến các công ty suy nghĩ lại về cách thức cung cấp sự linh hoạt về giờ giấc lẫn nơi làm việc cho lực lượng lao động của họ.

Như IBM đã cẩn thận để không loại bỏ tất cả chế độ làm việc linh hoạt ngay. Công ty vẫn cung cấp các mạng kết nối làm việc tại nhà để giúp đỡ nhân viên dung hòa các nhiệm vụ giữa công việc và nhu cầu chăm sóc con cái hay có các cuộc hẹn với bạn bè, đối tác.