Category Archives: Pages

Doanh nghiệp với mối lo phí bảo hiểm xã hội

Điều 89.2 của luật này quy định từ ngày 1-1-2016 đến ngày 31-12-2017, tiền lương tháng đóng BHXH bao gồm: (1) mức lương; và (2) phụ cấp lương theo quy định của pháp luật lao động được ghi trong hợp đồng lao động (HĐLĐ). Như vậy, mỗi tháng doanh nghiệp phải chi thêm 18% các khoản phụ cấp lương để đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ.

cong_nhan_giay

Mỗi tháng doanh nghiệp phải chi thêm 18% các khoản phụ cấp lương để đóng BHXH bắt buộc cho người lao động

Doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, tất nhiên không muốn gánh thêm chi phí này, nhưng cũng không thể cắt giảm toàn bộ phụ cấp lương đã trả cho NLĐ như trước đây. Theo điều 23.1 và điều 35 của Bộ luật Lao động, doanh nghiệp phải thỏa thuận với NLĐ để sửa đổi, bổ sung HĐLĐ trước khi cắt giảm phụ cấp lương và lẽ thường, không NLĐ nào lại đồng ý với doanh nghiệp trong trường hợp này.

Còn về mặt quản lý nhân sự, nếu không đảm bảo thu nhập của NLĐ tăng lên theo thời gian mà chỉ tìm cách cắt giảm các khoản khác ngoài tiền lương, doanh nghiệp sẽ đứng trước nguy cơ không giữ được NLĐ lâu dài. Tình trạng mất NLĐ với số lượng lớn và thường xuyên trong các doanh nghiệp sản xuất sẽ gây ra khó khăn không nhỏ cho doanh nghiệp trong việc vận hành nhà máy và đảm bảo tiến độ, chất lượng đơn hàng.
Để giảm thiểu phần nào khoản chi phí BHXH phát sinh nhưng vẫn phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, trên thực tế nhiều doanh nghiệp đang vận dụng một trong các cách làm sau:

Chuyển các khoản phụ cấp lương hiện tại thành tiền thưởng

Doanh nghiệp sẽ thỏa thuận với NLĐ để sửa đổi, bổ sung HĐLĐ theo hướng định danh lại các khoản phụ cấp lương thành tiền thưởng vì tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc không bao gồm tiền thưởng theo quy định tại điều 103 của Bộ luật Lao động(1), (lưu ý là các khoản khác như tiền ăn giữa ca, khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại… chỉ chiếm một phần nhỏ trong phần chung “các khoản bổ sung khác mang tính chất chế độ và phúc lợi khác”). NLĐ sẽ dễ dàng đồng ý với đề xuất này bởi thu nhập của NLĐ từ tiền lương vẫn không thay đổi trong khi NLĐ cũng không bị khấu trừ thêm 8% phụ cấp lương để đóng BHXH (trong trường hợp NLĐ được trả lương trước thuế).

Xét câu chữ thì rõ ràng khoản tiền thưởng không phải là phụ cấp lương theo tinh thần của điều 4 Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH và sẽ không được gộp vào tiền lương để làm cơ sở tính tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ, nhưng bản chất của khoản tiền thưởng mới được gọi tên này dường như chưa đúng cả ở quy định pháp luật lẫn nghĩa thông thường.

Cơ bản thì bản chất của tiền thưởng là một khoản thu nhập bổ sung mang tính khuyến khích NLĐ để họ nhiệt tình, có thêm những đóng góp có ích cho doanh nghiệp và NLĐ được nhận tiền thưởng như vậy phải đáp ứng các điều kiện để xứng đáng nhận tiền thưởng hơn những NLĐ khác. Điều 103 của Bộ luật Lao động cũng đã quy định tiền thưởng là khoản tiền mà người sử dụng lao động thưởng cho NLĐ căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh hàng năm và mức độ hoàn thành công việc của NLĐ.

Sẽ là khập khiễng khi xác định ngay từ cuối năm Dương lịch này tất cả NLĐ đều sẽ nhận được hàng tháng khoản tiền thưởng cố định trong suốt năm làm việc tiếp theo dù bản thân doanh nghiệp cũng chưa biết kết quả hoạt động kinh doanh của mình ra sao trong tương lai. Và càng khiên cưỡng hơn nữa khi nhiều doanh nghiệp cơ cấu tiền lương thấp hơn tiền thưởng hàng tháng. Dù vậy, ở phía ngược lại, doanh nghiệp vẫn có thể lập luận rằng tiền thưởng này đã căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và mức độ hoàn thành công việc của NLĐ trong năm vừa qua, nhưng thay vì trả một lần vào cuối năm thì doanh nghiệp chia đều để định kỳ trả khoản tiền thưởng này trong suốt năm làm việc sắp tới của NLĐ.

Cách làm này rất phổ biến nhưng trong quá trình triển khai, nhiều doanh nghiệp quên rằng theo Bộ luật Lao động, quy chế thưởng phải được công bố tại nơi làm việc sau khi tham khảo ý kiến của Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở, phải cụ thể hóa điều kiện được hưởng và mức được hưởng tại một trong các hồ sơ như HĐLĐ hay thoả ước lao động tập thể. Do vậy, nếu chưa thực hiện đầy đủ những việc này, doanh nghiệp vẫn có thể bị xem là chưa tuân thủ quy định và không được chấp nhận loại khoản tiền thưởng định kỳ hàng tháng ra khỏi cách xác định tiền lương tháng dùng làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ. Ngoài ra, khoản tiền thưởng đã trả còn có thể không được ghi nhận là chi phí được trừ theo các quy định thuế thu nhập doanh nghiệp.

Ghi giảm mức lương theo HĐLĐ và trả tiền lương làm thêm giờ bù đắp

Một số doanh nghiệp, phần lớn là doanh nghiệp sản xuất, gia công đang vận dụng điều 21 của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP và điều 3.2 của Thông tư số 23/2015/TT-BLĐTBXH để chia nhỏ tiền lương của NLĐ bao gồm tiền lương làm thêm giờ. Theo đó, tiền lương ghi trong HĐLĐ do doanh nghiệp thỏa thuận với NLĐ sẽ bao gồm mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác, nhưng mức lương không bao gồm khoản tiền trả thêm khi NLĐ làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm. Doanh nghiệp sẽ giải thích và thuyết phục NLĐ ký kết phụ lục sửa đổi, bổ sung HĐLĐ hoặc HĐLĐ mới ghi nhận mức lương NLĐ nhận theo HĐLĐ sẽ thấp hơn mức lương trước đây nhưng không thấp hơn lương tối thiểu vùng, và ngầm hiểu với nhau rằng phần chênh lệch sẽ vẫn được doanh nghiệp trả đủ cho NLĐ dưới một tên gọi khác là tiền lương làm thêm giờ. Như vậy, doanh nghiệp chỉ phải đóng BHXH bắt buộc hàng tháng cho NLĐ theo mức lương bằng hoặc cao hơn chút ít so với lương tối thiểu vùng, chứ không phải đóng trên toàn bộ tiền lương của NLĐ.

Chưa rõ, cơ quan BHXH sẽ có ý kiến như thế nào về việc tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ có bao gồm tiền lương làm thêm giờ hay không, nhưng trước mắt, cách làm này của doanh nghiệp sẽ gặp những khó khăn nhất định trong việc cấu trúc lại hệ thống tính toán tiền lương và các công việc hành chính kéo theo.

Do (số) tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương, tiền công làm việc ban ngày, làm việc trong giờ sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân(2) nên NLĐ sẽ được lợi hơn so với việc phải đóng thuế thu nhập cá nhân trên toàn bộ tiền lương theo HĐLĐ như trước. Tuy nhiên, nếu có tranh chấp với doanh nghiệp sau này, NLĐ sẽ gặp khó khăn trong việc chứng minh tiền lương thực tế của họ.

Về phía doanh nghiệp, nếu áp dụng cách này, sẽ rất vất vả cho các phòng ban nội bộ khi phải xem xét hệ thống chứng từ kế toán nội bộ, cơ cấu lại hệ thống tiền lương và chi trả lương, tiền lương làm thêm giờ cho NLĐ trong toàn bộ doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp sử dụng hàng ngàn lao động sản xuất. Bởi lẽ, doanh nghiệp phải lập bảng kê phản ánh rõ thời gian làm đêm, làm thêm giờ, khoản tiền lương trả thêm do làm đêm, làm thêm giờ đã trả cho NLĐ và phải xuất trình khi cơ quan thuế yêu cầu.

Hơn nữa, với việc tháng nào NLĐ cũng phải làm thêm giờ theo cách này, doanh nghiệp có thể rơi vào trường hợp sử dụng NLĐ làm thêm quá 200 giờ trong một năm hoặc quá 300 giờ trong một năm trong các trường hợp đặc biệt được Chính phủ quy định, tức là đã vi phạm điều 106.2 của Bộ luật Lao động và có thể bị xử phạt lên đến 100 triệu đồng(3).

Nghiêm trọng nhất là việc tách tiền lương làm thêm giờ để giảm số thuế thu nhập cá nhân cho NLĐ có thể bị xem là hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Hậu quả doanh nghiệp phải gánh chịu có khi lớn hơn nhiều lần so với số tiền doanh nghiệp đã không đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ từ việc áp dụng cách làm này.

Kết hợp cả hai cách trên

Để khắc phục những rủi ro pháp lý và sự phức tạp của công tác tiền lương, kế toán trong cách làm thứ hai, nhiều doanh nghiệp đã linh hoạt áp dụng kết hợp hai cách làm trên đây. Sự mềm dẻo này phần nào giúp doanh nghiệp khắc phục được khả năng NLĐ có thể làm quá số giờ làm thêm tối đa theo quy định, không áp dụng đối với bộ phận NLĐ làm văn phòng, đồng thời xem ra cũng có vẻ hợp lý hơn khi xen kẽ tháng trước NLĐ làm thêm giờ, tháng sau NLĐ được thưởng vì đã có thành tích tốt trong tháng trước. Dù vậy, doanh nghiệp chắc chắn không thể né tránh được một thực tế là phải có hệ thống tính toán tiền lương, nhân sự, kế toán rất tốt với đầy đủ các hồ sơ pháp lý, chứng từ chứng minh tính hợp pháp và hợp lý của cách làm mà doanh nghiệp đang thực hiện.

Tuy nhiên, dù đang làm cách nào, tâm lý chung của doanh nghiệp là “vừa làm, vừa lo”.

Luật sư Nguyễn Vân Quỳnh – Cao Thị Hoàng Oanh (*)

(*) Công ty Luật Phước & Partners

(1) Điều 30.3 của Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBHXH

(2) Điều 3.(i) của Thông tư 111/2013/TT-BTC và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP

(3)  Điều 3.1 của Nghị định 88/2015/NĐ-CP

Vay tín chấp – cuộc chơi tất yếu

Năm 2007, khi toàn bộ nhân viên của ngân hàng Techcombank được cấp hạn mức thấu chi tự động (cho vay dựa trên xét mức lương, vị trí của nhân viên) với hạn mức bằng gấp ba lần thu nhập tháng, ít ai trong số họ lại hình dung được rằng, sau tám năm, thị trường cho vay tín chấp lại sôi nổi đến mức khốc liệt như ngày hôm nay.

Thời của vay tín chấp cá nhân

Năm 2015 chứng kiến cuộc đua vô cùng căng thẳng giữa các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính trên mặt trận cho vay tín chấp cá nhân. Tháp phân khúc khách hàng được khai thác triệt để từ các phân khúc cao nhất (nhóm nhà giàu) cho tới phân khúc thấp nhất mà xưa nay, giới ngân hàng vẫn cho là “không có khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng” (những người có thu nhập dưới 4 triệu đồng/tháng).

Với phân khúc cao nhất là Private và Priority – những khách hàng có tiền gửi ngân hàng từ 1 tỉ đồng trở lên, hầu hết ngân hàng đều cấp cho khách hàng hạn mức thấu chi cao lên tới 1-2 tỉ đồng. Với những phân khúc thấp hơn, hạn mức tín chấp được cấp dựa trên thu nhập hàng tháng, phổ biến từ 3-6 tháng lương, cao nhất như VPBank lên tới 10 tháng lương – dành cho cấp bậc quản lý. Dù thực tế giải ngân vay tín chấp thấp hơn 55% so với kế hoạch nhưng ngân hàng này vẫn kiên quyết xác định vay tín chấp là trọng tâm của năm 2016 và đặt ra mục tiêu tổng giải ngân vay tín chấp gấp 4 lần năm trước và tập trung vào các khách hàng tiêu dùng. Các phân khúc được cho là an toàn này hiện chủ yếu do các ngân hàng trong nước chiếm giữ, tiêu biểu như Techcombank, ACB, VPBank, MSB, HSB.

Phân khúc khách hàng thu nhập thấp trở nên “nóng” trong thời gian gần đây khi được sự quan tâm đặc biệt của các công ty cho vay tiêu dùng trong nước. Với mô hình hoạt động linh hoạt, nhanh, đơn giản, một số công ty tài chính đang mở rộng thị phần với tốc độ nhanh chưa từng có. Chỉ trong năm năm, FE credit (thuộc VPBank) đã phát triển được gần 1,6 triệu khách hàng và hiện là đơn vị đóng góp tỷ trọng đáng kể vào lợi nhuận của ngân hàng này. Cuộc đua sẽ tiếp tục khốc liệt khi ngoài các tổ chức quốc tế trước đây (Prudential, Home credit…), các tổ chức trong nước như HDBank, Techcombank, MSB đã bắt đầu vào cuộc.

Trong khi vay tín chấp đang rất phổ biến ở thị trường bán lẻ thì đối với thị trường doanh nghiệp, câu chuyện dường như mới bắt đầu.

Cạnh tranh càng khốc liệt, người tiêu dùng càng có lợi thế. Anh Nhựt – lái taxi của hãng Vinasun tại TPHCM – cho biết, có tới 50% trong số những người bạn làm nghề lái taxi của anh có vay tiêu dùng. Do hầu hết không có tài sản giá trị nên đều vay tín chấp từ ngân hàng để mua xe máy, ti vi… hay những lúc cần tiền gấp. Anh chia sẻ: “Biết là lãi suất cao nhưng còn đỡ áp lực hơn nhiều so với vay nóng bên ngoài. Hơn nữa, thủ tục vay khá đơn giản và được giải quyết rất nhanh. Hy vọng là thời gian tới, có thêm nhiều công ty cho vay, lãi suất vay sẽ giảm bớt”.

Cô Hòa (ở quận Cầu Giấy, Hà Nội – khách hàng Priority của Techcombank dù không hài lòng lắm với mức phí 150.000 đồng/tháng cho dịch vụ thấu chi nhưng “xét về mục đích sử dụng thì cô thấy ổn, lúc nào cô cần tiền đột xuất là có ngay, rất tiện lợi”.

Tín chấp doanh nghiệp nhỏ và vừa – ai là người dũng cảm?

Trong khi vay tín chấp đang rất phổ biến ở thị trường bán lẻ thì đối với thị trường doanh nghiệp, câu chuyện dường như mới bắt đầu và được kỳ vọng là sẽ làm thay đổi tình trạng “con gà – quả trứng” bấy lâu nay.

Công bố của Viện Nhân lực ngân hàng tài chính năm 2015 cho thấy 70% doanh nghiệp nhỏ và vừa không tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Điều này dễ hiểu khi trong số 96% doanh nghiệp là nhỏ và vừa thì gần 70% là doanh nghiệp siêu nhỏ (có dưới 10 lao động). Với phân khúc này, việc cho vay dựa trên tài sản đảm bảo (nhà, xe) là không nhiều, do vậy tín chấp được cho là giải pháp hợp lý nhất. Nhưng liệu các ngân hàng tại Việt Nam đã dám “dũng cảm” cho doanh nghiệp vay tín chấp?

Khảo sát quanh một vòng các ngân hàng, chỉ có hai ngân hàng có loại hình tín chấp này là MSB và VPBank. Là ngân hàng thử nghiệm cho vay tín chấp đầu tiên từ năm 2013, MSB chọn lựa những doanh nghiệp có doanh thu tối thiểu là 20 tỉ đồng/năm (dựa trên báo cáo thuế) và chào mời những phương án tín chấp đa dạng, gồm cả bảo lãnh và LC. Điều đáng nói là dù có mặt sớm nhất trên thị trường tín chấp doanh nghiệp và có mức lãi suất khá cạnh tranh nhưng MSB lại không được biết nhiều về lĩnh vực này do phân khúc họ lựa chọn chưa thực sự rơi đúng vào nhóm siêu nhỏ – nhóm đang khát khao được vay tín chấp nhất.

Là ngân hàng đi sau nhưng VPBank dường như tham vọng hơn so với MSB. Đầu năm 2015, ngân hàng này mới có những khoản giải ngân tín chấp đầu tiên cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngoài việc tuyển dụng nhóm nhân viên chuyên trách về vay tín chấp, VPBank tỏ ra linh hoạt và tiếp cận đúng đối tượng doanh nghiệp siêu nhỏ hơn khi các doanh nghiệp vay được khoanh vùng ở mức doanh thu 5 tỉ đồng/năm. Sang năm 2016, ngân hàng này đã thể hiện sự theo đuổi phân khúc doanh nghiệp siêu nhỏ mạch lạc hơn khi tung ra gói sản phẩm hấp dẫn hơn nữa. Theo đó, doanh nghiệp siêu nhỏ có thể vay thế chấp hoặc tín chấp nhanh, trong đó duyệt tín chấp chỉ trong năm giờ và không cần đỏi hỏi mức doanh thu tối thiểu.

Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), ông Vũ Tiến Lộc, trong một buổi hội thảo đầu tháng 2 đã đề xuất ngân hàng cần đẩy mạnh cho vay tín chấp để giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh.

Theo một lãnh đạo ngân hàng, việc tham gia cho vay tín chấp phân khúc doanh nghiệp siêu nhỏ không chỉ giúp giải bài toán gà – trứng về doanh nghiệp tiếp cận vốn mà còn là hướng đi đột phá trong bối cảnh hầu hết các ngân hàng cứ loanh quanh tiếp cận các doanh nghiệp có tài sản đảm bảo. Quan trọng là khẩu vị rủi ro của từng ngân hàng khác nhau và ai là người dũng cảm!

 

Đơn thuốc kháng sinh liều cao cho ngân hàng

Điều chỉnh giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn của hệ thống ngân hàng từ mức 60% hiện hành về 40%; đồng thời quy định tỷ lệ cấp tín dụng trên tổng vốn huy động áp dụng cho ngân hàng quốc doanh và nửa quốc doanh 90%, của ngân hàng cổ phần 80% là những điểm nhấn đang thu hút sự chú ý của doanh nghiệp cũng như các tổ chức tín dụng về dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 36 về tỷ lệ an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.

Nhằm hạn chế những biến động thanh khoản trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng năm nay được dự báo ở mức 18-20%, cơ quan quản lý đã đi trước với việc hạ tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn chảy vào tín dụng trung, dài hạn.

Nhằm hạn chế những biến động thanh khoản trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng năm nay được dự báo ở mức 18-20%, cơ quan quản lý đã đi trước với việc hạ tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn chảy vào tín dụng trung, dài hạn.

Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến cuối tháng 12-2015 tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn chung của toàn hệ thống ở mức 31%, cụ thể của ngân hàng quốc doanh nơi Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối là 33,36%; của ngân hàng cổ phần 36,9%; của công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính 73,14%; của ngân hàng hợp tác xã 77,93%. Căn cứ vào những số liệu này, việc vượt quá tỷ lệ quy định nằm ở hai đối tượng sau. Thời gian vừa qua, doanh số cho vay của các công ty tài chính tăng rất mạnh, trong đó chủ yếu cho vay tiêu dùng, bao gồm cả cho vay sửa chữa, xây mới nhà cửa. Doanh số của một số công ty tài chính tăng chóng mặt, gấp 1-2 lần so với cùng kỳ năm trước, mở theo chiều rộng hơn chiều sâu để chiếm lĩnh thị phần.

Vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu của các công ty tài chính thường nhỏ, khoảng vài trăm tỉ đồng và họ không có chức năng huy động vốn từ dân cư hoặc doanh nghiệp. Để có vốn cho vay, họ vay ngân hàng kỳ hạn trên một năm. Họ có thể phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu và các tổ chức tín dụng là bên mua. Các ngân hàng không những không gây khó dễ cho các công ty tài chính, ngược lại còn hỗ trợ vì công ty tài chính là công ty con của ngân hàng, phần lớn được ngân hàng góp vốn từ 50% trở lên, có ngân hàng sở hữu 100%. Cung ứng vốn cho công ty tài chính trên một năm, tất nhiên các ngân hàng phải hạch toán đây là tín dụng trung, dài hạn.

Với công ty cho thuê tài chính cũng không khác mấy. Việc đầu tư và cho doanh nghiệp thuê các thiết bị máy móc, dây chuyền sản xuất thông thường có kỳ hạn hàng năm. Công ty cho thuê tài chính không thể vay vốn ngắn hạn ngân hàng, họ phải tìm cách vay trung, dài hạn.

Đến cuối tháng 12-2015, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn chung của toàn hệ thống ở mức 31%, thậm chí còn cách khá xa mức 60% theo quy định hiện hành, vậy tại sao dự thảo sửa đổi bổ sung Thông tư 36 lại phải điều chỉnh xuống 40%? Một trong những lý do chính được nhà điều hành nêu ra là tín dụng bất động sản đang tăng nhanh hơn tín dụng chung.Box phải

Cho dù thế, tỷ lệ 31% chung của toàn hệ thống chưa đến mức báo động, thậm chí còn cách khá xa mức 60%, vậy tại sao dự thảo sửa đổi bổ sung Thông tư 36 lại phải điều chỉnh xuống 40%? Phải chăng số liệu công bố của NHNN được tập hợp từ báo cáo của các ngân hàng và báo cáo chưa chính xác? NHNN chắc hẳn phải có lý do và một trong những lý do chính được nhà điều hành nêu ra là tín dụng bất động sản đang tăng nhanh hơn tín dụng chung.

Vấn đề là, theo một số ngân hàng, rất khó để biết chính xác tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn trên tổng vốn huy động của một tổ chức tín dụng. Trước hết, tỷ lệ này biến thiên hàng ngày do khách hàng gửi tiền vào, rút tiền ra liên tục với sự thay đổi kỳ hạn liên tục. Một mặt ngân hàng mong muốn khách hàng gửi tiền không kỳ hạn để có thể trả lãi suất thấp, giảm giá thành đồng vốn huy động. Mặt khác lại kỳ vọng người dân, doanh nghiệp gửi kỳ hạn dài, 12-15-18 tháng trở lên để chủ động được đầu vào, tính toán kỳ hạn cho vay đầu ra.

Tuy nhiên do sự biến động của các kênh đầu tư hiện tại bất ngờ, ẩn chứa rủi ro nhiều, cơ hội lắm, nên khách hàng đa số chủ động gửi tiết kiệm ngắn hạn (dưới 12 tháng). Sự thăng trầm của giá vàng từ đầu năm đến nay là một thí dụ. Từ chỗ giá vàng trong nước cao hơn giá quốc tế khoảng 3 triệu đồng/lượng, nay giá vàng nội – ngoại đã xóa nhòa chênh lệch, gần ngang bằng nhau. Cho dù cầu về vàng của người dân đã giảm, nhưng ai dám đảm bảo sức cầu vàng nội không trỗi dậy nếu giá vàng thế giới cứ lừng lững đi lên?

Thử nhìn vào một trường hợp điển hình Vietcombank. Báo cáo tài chính hợp nhất quí 4-2015 của Vietcombank cho thấy vốn huy động không kỳ hạn của ngân hàng tại ngày 31-12-2015 chiếm 28% tổng vốn huy động. Số vốn huy động từ tổ chức kinh tế chiếm 44,8%, phần còn lại từ cá nhân, dân cư. Trong 72% vốn huy động có kỳ hạn còn lại, các kỳ hạn ngắn chiếm tỷ trọng lớn. Như vậy, Vietcombank dù muốn hay không, vẫn phải sử dụng một tỷ lệ nhất định vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn.

Có ý kiến nhận định vốn trung, dài hạn không chỉ tập trung vào một lĩnh vực bất động sản, và do những khó khăn trong việc kiểm soát luồng vốn huy động ngắn hạn nhằm hạn chế rủi ro kỳ hạn, có thể dẫn đến những biến động thanh khoản trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng năm nay được dự báo ở mức 18-20%, cơ quan quản lý đã đi trước với việc hạ tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn chảy vào tín dụng trung, dài hạn.

Ý kiến trên đang được thực tế xác nhận. NHNN công bố tỷ lệ cấp tín dụng bình quân trên tổng vốn huy động của các ngân hàng quốc doanh, nửa quốc doanh vào cuối năm ngoái lên tới 97,22%, cao nhất trong vòng năm năm trở lại đây, trong khi của ngân hàng cổ phần chỉ có 78,49%; của ngân hàng liên doanh, nước ngoài còn thấp nữa 62,27%. Một chuyên gia nhận xét không nên vui mừng vì tỷ lệ cho vay/huy động thấp của tổ chức tín dụng cổ phần bởi những ngân hàng cổ phần là “điểm nóng” về tái cơ cấu đang phải dự trữ thanh khoản cho những khoản phải thu, những khoản lãi và phí phải thu tăng vọt. Không có chuyện ngân hàng để tiền “rong chơi” trong xu hướng lãi suất tiết kiệm đang được đẩy lên ở mọi kỳ hạn.

Giờ đây dự thảo sửa đổi Thông tư 36 yêu cầu các ngân hàng quốc doanh và nửa quốc doanh phải kéo tỷ lệ cho vay/huy động xuống 90%. Có hai phương án: hoặc hạ tín dụng, thu hồi nợ nhiều hơn cho vay mới; hoặc nâng tổng vốn huy động. Còn đối với ngân hàng cổ phần, mức nhúc nhích từ 78,49% lên 80% không đáng là bao. Ngân hàng không thể ngưng cấp tín dụng bởi đây là nghiệp vụ sinh lời cao nhất, cho nên cách thức khả thi sẽ là nâng tổng vốn huy động. Cuộc đua huy động vốn mới chỉ bắt đầu!

 

FPT Shop khẳng định đang tìm nhà đầu tư, cơ hội cho Thế Giới Di Động?

FPT khẳng định đang tìm kiếm nhà đầu tư để góp phần phát triển FPT Shop, trong khi đó TGDĐ từ lâu đã có ý định tìm chuỗi để mua lại.

Trả lời chúng tôi, đại diện FPT Shop cho biết tập đoàn FPT dự kiến kêu gọi đầu tư từ các nhà đầu tư có tài chính mạnh, có năng lực, có kinh nghiệm trong lĩnh vực bán lẻ và trực tuyến… để giúp FPT Shop phát triển mạnh mẽ tiếp trong giai đoạn tiếp theo.

Một cửa hàng của FPT Shop - Ảnh: fptshop.com.vn

Một cửa hàng của FPT Shop – Ảnh: fptshop.com.vn

FPT Shop cho biết trong năm 2015, FPT Shop là công ty tăng trưởng nhanh nhất tập đoàn FPT, đóng góp ngày càng quan trọng vào doanh thu, lợi nhuận của tập đoàn (19,6% doanh thu của tập đoàn).

Sau 4 năm tăng trưởng và phủ sóng toàn quốc, FPT Shop cho biết đã đến lúc chuỗi này “cần thêm nguồn vốn, kinh nghiệm quản trị hiện đại và mô hình số hoá để làm mới mình, tạo nên những bước đi mang hàm lượng công nghệ cao cho lĩnh vực bán lẻ, mang lại cho khách hàng những trải nghiệm mới mẻ, thú vị và thực tế…”.

Trước đó, trong đại hội cổ đông của Thế Giới Di Động vào tháng 2/2016, Tổng giám đốc Trần Kinh Doanh của công ty này được dẫn lời cho rằng công ty đang cân nhắc một trong hai phương án mua lại chuỗi bán lẻ hoặc tự mở các cửa hàng để mở rộng quy mô, dự kiến mở 100 cửa hàng Thế Giới Di Động trong năm 2016. Trong khi đó, có tin cho rằng tập đoàn FPT có kế hoạch rút vốn, tìm nhà đầu tư cho mảng bán lẻ, cụ thể là Công ty phân phối FPT và chuỗi cửa hàng FPT Shop. Ông Doanh được dẫn lời cho rằng nếu FPT Shop được bán thì đó là cơ hội tốt cho các nhà bán lẻ như Thế Giới Di Động, ngầm hiểu rằng Thế Giới Di Động có quan tâm đến việc sáp nhập với FPT Shop.

Trả lời việc này với chúng tôi, ông Trần Kinh Doanh cho biết việc mua bán, sáp nhập đã nằm trong kế hoạch kinh doanh của công ty từ năm 2015, nhưng dự định này vẫn đang để ngỏ do chưa tìm được thương vụ phù hợp.

 

“Chúng tôi chưa nghe một cách chính thức về ý định bán lại của FPT Shop, vì thế chưa thể đưa ra bình luận gì. Chúng tôi chỉ nhắc lại ý định về việc mua bán sáp nhập đã từng công bố trước đây và hai việc này vô tình đã được đặt cạnh nhau dẫn đến những đồn đoán trong thời gian gần đây”, ông Doanh trả lời qua email.

Trong khi đó, bình luận về thông tin trên, FPT Shop cho rằng họ vẫn luôn hoan nghênh các nhà đầu tư có thiện chí giúp FPT Shop có thể mở rộng phát triển hơn nữa, “vì việc đầu tư cũng như kêu gọi đầu tư là cơ hội cho tất cả mọi người”; và cho rằng trước việc các công ty, nhà đầu tư đặt vấn đề “tìm hiểu” FPT Shop đã phần nào cho thấy được sức hút và tiềm năng phát triển dài hạn của FPT Shop.

Các chuyên gia cho rằng FPT Shop có thể sẽ tìm kiếm các nhà đầu tư nước ngoài để mở rộng quy mô, hơn là chọn một đối tác, “đối thủ” như Thế Giới Di Động.

Trong khi FPT Shop đang tìm kiếm đối tác có tài chính mạnh, có năng lực, có kinh nghiệm trong lĩnh vực bán lẻ và trực tuyến… thì Thế Giới Di Động nói rằng “tiêu chí để chọn một đơn vị để cân nhắc các phương án sáp nhập là rất nhiều yếu tố. Quan trọng vẫn là đơn vị đó có khả năng đem lại giá trị mà Thế Giới Di Động đang mong đợi”. Giả sử Thế Giới Di Động mua lại một hệ thống nào đó, ông Doanh dường như nghiêng về phương án đổi tên hệ thống đó thành Thế Giới Di Động, vì ông cho rằng “ngay cả bản thân hệ thống chuỗi siêu thị Điện máy Xanh, chúng tôi cũng đã trải qua vài lần đổi tên thương hiệu để phù hợp và dễ tiếp cận với thị trường”, tất nhiên ông để ngỏ ý kiến rằng sẽ quyết định việc này tùy theo tình hình.

Bình luận bên lề, các chuyên gia cho rằng FPT Shop có thể sẽ tìm kiếm các nhà đầu tư nước ngoài để mở rộng quy mô, hơn là chọn một đối tác, “đối thủ” như Thế Giới Di Động.

Nói về chiến lược sắp tới, FPT Shop cho biết (tập đoàn) FPT vẫn luôn đặt mục tiêu phát triển mạnh cho khối bán lẻ, đồng thời để tiếp tục phát triển quy mô trong năm 2016 thì hệ thống này “tập trung vào khách hàng làm trọng tâm” cũng như nỗ lực trong việc giải quyết bài toán về mặt bằng kinh doanh. FPT Shop đặt mục tiêu mở thêm tối thiểu 50 cửa hàng trong năm 2016.

Ông Trần Kinh Doanh thì cho rằng, thị trường bán lẻ trong 3-5 năm tới sẽ có nhiều thay đổi, nhưng ông “không bàn quá nhiều ở thì tương lai xa”. “Trước mắt, riêng Thế Giới Di Động trong năm 2016, Chúng tôi chắc chắn sẽ về đích với 850 cửa hàng, bao gồm cả Thegioididong.com và Điện máy Xanh. Nếu tình hình thuận lợi thì có thể nhiều hơn và lên đến 1.000 cửa hàng”, ông Doanh nói.

Nói thêm lần cuối về chuyện thuế Facebook

Đến hẹn lại lên, cứ dăm bữa nửa tháng lại có một bài báo hay một ý kiến than trách chuyện các tập đoàn nước ngoài kinh doanh dịch vụ xuyên biên giới tại Việt Nam, tiền thì thu nhiều mà thuế không phải nộp đồng nào. Vấn đề là câu chuyện này không có gì mới, đã rộ lên mấy năm nay, vì sao đến nay vẫn chưa tìm ra cách hóa giải? Và có đúng là cơ quan thuế đang bó tay, không thu được thuế từ Facebook hay Google không?

Nhà nước đang nắm đằng cán

Nói đến nghĩa vụ thuế của Facebook hay Google thì trước hết phải xác định cho chính xác quy mô thị trường quảng cáo trực tuyến của Việt Nam. Theo số liệu của TS. Đinh Lê Đạt, một chuyên gia trong lĩnh vực quảng cáo trực tuyến, thì tổng doanh thu quảng cáo trực tuyến của thị trường Việt Nam năm 2014 là 216 triệu đô la Mỹ và năm 2015 ước tính 329 triệu đô la Mỹ. Trong đó phần bánh của hai gã khổng lồ Google và Facebook tăng chóng mặt, lên đến lần lượt 65 triệu và 80 triệu đô la Mỹ cho năm 2014; còn năm 2015 là 100 triệu cho Google và 140 triệu đô la Mỹ cho Facebook.

Nói cách khác, hai anh chàng này từ chỗ chỉ chiếm chừng 6% thị phần thì đến năm 2015 đã tăng vọt lên đến 73%! Giả thử số liệu này là chính xác thì năm 2015, ước tính doanh thu quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam của Google và Facebook chừng trên 5.000 tỉ đồng và số thuế họ phải nộp chừng 500 tỉ đồng.

Trước khi nói đến biện pháp thu thuế, tưởng cũng nên nhắc lại nguyên tắc chống thất thu thuế: đó là thuế của người này là phần khấu trừ của người kia cho nên lúc nào cũng có một bên có động lực đòi bên kia minh bạch chuyện thuế. Nếu bạn được giao đi mua một món đồ gì đó cho cơ quan, ắt phòng tài vụ sẽ đòi bạn đem về cho họ hóa đơn đỏ, đó là bởi hóa đơn này là cơ sở để cơ quan bạn liệt kê chi phí được khấu trừ trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Bên bán đã phát hành hóa đơn ra thì phải nộp thuế giá trị gia tăng cho cơ quan thuế.

Đó là với hàng hóa hay dịch vụ trong nước với nhau. Với các dịch vụ giao dịch xuyên biên giới thì Nhà nước tìm cách nắm đằng cán, còn chặt chẽ hơn thế nữa. Theo quy định về thuế đối với nhà thầu nước ngoài thì bên mua dịch vụ từ Việt Nam “có trách nhiệm khấu trừ số thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp… trước khi thanh toán cho nhà thầu nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài”. Như vậy một công ty, ví dụ Vinamilk dùng công cụ Google Adsense để quảng cáo trên hàng loạt ấn phẩm và trả tiền trực tiếp cho Google, khoản chi này đến khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp cho Vinamilk sẽ không được chấp nhận nếu Vinamilk trước đó không mạnh tay cộng thêm 5% thuế giá trị gia tăng và 5% thuế thu nhập doanh nghiệp vào hợp đồng để nộp thay cho Google vì Google chưa hiện diện tại đây.

Nói cách khác một khi Google hay Facebook chưa có sự hiện diện chính thức ở Việt Nam theo Luật Đầu tư thì nghĩa vụ thuế trực tiếp của họ đâu có đâu mà cứ nói họ trốn thuế! Nghĩa vụ thuế của họ đã gián tiếp chuyển sang cho những người mua dịch vụ của họ tại Việt Nam và ai cẩn thận sẽ cộng thêm khoản này trước khi chi trả cho Google (để sau này nộp cho cơ quan thuế), ai không cẩn thận sẽ phải chịu xem khoản chi đó là không hợp lệ, không được khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp. (Nên nhớ trong doanh thu mà Google hay Facebook nhận được từ thị trường Việt Nam, đâu phải họ hưởng trọn 100%? Với Google, đến 68% sẽ được chia cho các tờ báo hiển thị cái quảng cáo đó).

Đến đây có lẽ mọi người đã thấy vì sao báo chí thì cứ than, cơ quan thuế thì bình chân như vại. Bởi cứ như hiện nay đằng nào họ cũng thu được thuế, hoặc là thuế suất thu nhập doanh nghiệp (chủ yếu là 20-22%) trên 5.000 tỉ đồng hay thu trọn 500 tỉ đồng giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp mà người mua dịch vụ thu hộ.

Và thật tình mà nói, muốn “làm người lương thiện” thu thuế Google hay Facebook giùm cho Nhà nước cũng nhiêu khê lắm. Thanh toán tiền dịch vụ quảng cáo bằng thẻ tín dụng mang tên cá nhân là không được chấp nhận rồi. Hóa đơn chứng từ đầu vào mang tên cá nhân cũng không được kê khai khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào và không được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Bộ chứng từ cần có để tính vào chi phí được khấu trừ gồm nào là “quy chế của đơn vị về việc mua các dịch vụ qua mạng”, “đề xuất bằng văn bản của bộ phận kinh doanh cần quảng cáo với cấp trên”, “báo cáo nghiệm thu”, “chứng từ thanh toán”, và quan trọng nhất “tờ khai và chứng từ nộp thuế nhà thầu nước ngoài”. Chẳng lạ gì trên các diễn đàn kế toán, rất nhiều người hoang mang không biết làm sao để hợp thức hóa các khoản chi cho Facebook hay Google, nói gì thu thuế giùm.

Thế còn các dịch vụ khác như Netflix hay Apple Music?

Với các dịch vụ mà người tiêu dùng đầu cuối là cá nhân thì khó lòng áp dụng chuyện bắt họ thu thuế nhà thầu giùm. Với các trường hợp này, phải xác định đòi thu thuế nhưng nhắm thu loại thuế nào là khả thi nhất? Bình thường nhiều người nghĩ đó là thuế thu nhập doanh nghiệp, tức làm ăn có lãi thì phải nộp thuế! Đừng hòng, chuyện thu thuế thu nhập doanh nghiệp các công ty cung ứng dịch vụ xuyên biên giới như Netflix hay Uber là chuyện xa vời – đa phần có thành lập pháp nhân ở Việt Nam đâu mà thu và nếu có, hầu như chắc chắn họ sẽ từ lỗ vừa đến lỗ lớn (xem thêm box).

Loại thuế Việt Nam, cũng như các nước khác, phải nhắm tới là thuế bán hàng, ở nước ngoài phổ biến tên gọi sales tax còn ở Việt Nam là thuế giá trị gia tăng. Sẽ có người nói ngay, đây là thuế gián thu, thực chất là người tiêu dùng nộp, doanh nghiệp chỉ thu hộ thôi. Thu thuế này thì chẳng khác nào thu thuế dân mình chứ đâu có đụng đến các doanh nghiệp đó?

Trong bối cảnh các doanh nghiệp nội địa cung ứng dịch vụ tương tự phải nộp thuế giá trị gia tăng mà doanh nghiệp nước ngoài không nộp thì tính bình đẳng nằm ở đâu, làm sao doanh nghiệp trong nước cạnh tranh cho lại. Dù biết đó là thuế gián thu nhưng thu được còn hơn không và doanh nghiệp muốn cạnh tranh phải chia sẻ gánh nặng thuế đó cho người tiêu dùng.

Có lẽ ít người biết tổng thu thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn nhiều so với tổng thu thuế giá trị gia tăng. Ví dụ theo dự toán ngân sách năm 2015 thì sắc thuế đầu thu 226.700 tỉ đồng trong khi sắc thuế sau thu đến 281.500 tỉ đồng.

Để thu thuế giá trị gia tăng Việt Nam cần theo chân các nước châu Âu xác định rõ các tập đoàn đa quốc gia khi cung ứng dịch vụ xuyên biên giới thì thuế sẽ thu theo vị trí địa lý của người tiêu dùng chứ không phải phụ thuộc vào nơi đóng trụ sở của các tập đoàn này. Ví dụ Anh thay đổi cách tính thuế theo hướng này từ đầu năm 2015 đối với các dịch vụ kỹ thuật số. Trước đây khi còn tính giá trị gia tăng theo vị trí của người bán, nhiều công ty dựng lên trụ sở ở Luxembourg để tránh mức thuế giá trị gia tăng, có khi cao đến 27% ở nhiều nước châu Âu khác.

Các doanh nghiệp lớn như Amazon đã thu thuế giá trị gia tăng trên sản phẩm và dịch vụ số bán ra, ví dụ thuế giá trị gia tăng cho các sách điện tử Kindle bán ở Thụy Điển phải cộng thêm 25% thuế trong khi bán cho người ở Pháp thì chỉ cộng thêm 5,5% thuế. Đáng tiếc trong danh sách mức thuế giá trị gia tăng cụ thể này không thấy có Việt Nam. Hóa đơn của Apple phát hành hiện cho dịch vụ nghe nhạc ở Việt Nam cũng không thấy dòng nào nói chuyện thuế cả. Có lẽ trong giai đoạn này đánh thuế giá trị gia tăng lên sách điện tử làm nó đắt đỏ hơn chưa hẳn là điều hay. Chứ còn với các doanh nghiệp như Amazon hay Netflix, chỉ cần gửi công văn chính thức yêu cầu họ phải giữ lại thuế giá trị gia tăng rồi chuyển nộp cho Chính phủ Việt Nam, chắc họ sẽ tuân thủ như đang tuân thủ với nhiều nước khác trên thế giới. Xét cho cùng họ đâu mất thêm gì đâu, ngoài việc khách hàng của họ than trời chuyện thuế khóa!

Riêng chuyện Facebook và Google cùng nhiều tên tuổi lớn khác đang bị chê trách vì trốn tránh đóng thuế ở các nước họ hoạt động chính thức lại là một đề tài khác. Ví dụ báo chí đầu năm 2016 tràn ngập tin Facebook chỉ đóng vỏn vẹn 122 triệu đô la tiền thuế mặc dù lợi nhuận lên đến 3,4 tỉ đô la, tức chỉ chịu thuế suất 3,6%. Nhân đó báo chí Anh nhắc lại năm 2014 Facebook ghi nhận doanh thu đến gần 1 tỉ bảng nhưng chỉ nộp chừng 6.000 bảng tiền thuế!