6 quan niệm sai lầm trong quản lý nhân viên

Có một số quan niệm tưởng chừng đã trở thành “chuyện không phải bàn cãi” nhưng thật ra lại là những suy nghĩ sai lầm. Nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng có thể vướng vào những suy nghĩ như thế về các vấn đề quản lý và động viên nhân viên, về sự gắn kết họ và giúp họ thành công.

Theo David Sturt và Todd Nordstrom – các chuyên gia tư vấn chuyên giúp các nhà lãnh đạo và nhân viên đạt được những thành tích vượt bậc, đồng thời là các nhà nghiên cứu của O.C. Tanner Institute, nhà lãnh đạo doanh nghiệp thường mắc phải những quan niệm sai lầm sau đây trong quản lý nhân viên:

Một ngày làm việc 8 giờ sẽ tạo ra năng suất cao nhất

Gần đây, một thành phố ở Thụy Điển đã quyết định áp dụng luật làm việc tối đa 6 giờ mỗi ngày. Đằng sau quyết định này là kết quả của một nghiên cứu chứng minh rằng nhân viên thật ra sẽ làm việc hiệu quả hơn nếu ngày làm việc của họ ngắn đi.

Bằng cách sử dụng một ứng dụng đo lường hiệu quả làm việc theo thời gian có tên là DeskTime, Draugiem Group đã thực hiện một thực nghiệm để tìm hiểu thói quen của những nhân viên làm việc hiệu quả nhất. Kết quả thật đáng ngạc nhiên: những nhân viên có năng suất cao nhất lại làm việc ít thời gian hơn những nhân viên có năng suất kém hơn. Những nhân viên này thậm chí không phải làm việc 8 tiếng mỗi ngày.

Ngoài ra, cứ làm việc được 52 phút thì họ lại nghỉ giải lao 17 phút. Nghiên cứu này đã cho thấy, rõ ràng nếu nhân viên được tạo điều kiện để có những khoảng thời gian nghỉ ngắn trong ngày làm việc và rút ngắn thời gian làm việc trong một ngày thì họ sẽ làm việc hiệu quả hơn.

Tiền bạc là phương thức động viên tốt nhất

Nhân viên có làm việc hiệu quả hơn và cảm thấy hạnh phúc hơn không nếu họ được trả lương cao hơn? Một nghiên cứu do Công ty Tư vấn Boston (BCG) đã đưa ra câu trả lời là không.

Để đưa ra câu trả lời này, BCG đã thực hiện một cuộc khảo sát với 200.000 nhân viên và phát hiện ra rằng một mức lương hấp dẫn chỉ là yếu tố đứng hàng thứ 8 khiến nhân viên cảm thấy hạnh phúc ở công sở. Những yếu tố quan trọng hơn bao gồm nhân viên được đánh giá cao và công nhận, nhân viên có quan hệ tốt với đồng nghiệp, nhân viên có được sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống.

Một nghiên cứu khác do O.C. Tanner Institute và The Cierro Group phối hợp thực hiện gần đây cũng đưa ra kết quả rằng tiền bạc không phải là phương thức động viên nhân viên tốt nhất.

Theo đó, khi được hỏi hình thức động viên lớn nhất đối với họ là gì, chỉ có 7% nhân viên tham gia khảo sát trả lời rằng đó là hình thức tăng lương. Trong khi đó, hơn 35% lại cho biết đó là khi họ được công nhận.

Nhân viên nên xông xáo thực hiện ngay các dự án

Nghiên cứu cho thấy đây không phải là một thói quen tốt và có thể đem lại những kết quả tốt đẹp. Thay vào đó, nhân viên cần dừng lại và suy nghĩ trước khi thực hiện một dự án, đặt ra những câu hỏi thích hợp, dành thời gian để thử nghiệm và điều chỉnh cách thực hiện công việc cho đến khi tạo ra được sự khác biệt khiến mọi người đều yêu thích.

Những nhân viên có thành tích cao sẽ có triển vọng trở thành những nhà quản lý giỏi

Cần nhận ra sự khác biệt giữa quản lý và lãnh đạo. Nói cách khác, những người làm việc tốt chưa chắc đã là những nhà quản lý tuyệt vời. Không chỉ là một người làm việc hiệu quả và hiểu biết rõ về công việc của mình, nhà quản lý còn phải là người có khả năng phát hiện ra những kỹ năng riêng có của nhân viên và giúp họ phát huy những thế mạnh ấy.

Một nghiên cứu mang tên “Giá trị của sếp” do Santon, Shaw và Lazear thực hiện đã đưa ra kết luận rằng những vị sếp không có khả năng cải thiện hiệu quả làm việc của nhân viên thường có tỷ lệ thất bại cao gấp 2 lần những vị sếp bình thường.

Những nhân viên làm việc từ xa sẽ thiếu cam kết và gắn bó với doanh nghiệp

Không ít doanh nghiệp ngại áp dụng chế độ làm việc theo thời gian linh hoạt hoặc làm việc từ nhà vì quan niệm này. Một nghiên cứu do Gallup thực hiện có tựa đề “Thực trạng công sở nước Mỹ” đã phát hiện ra rằng những nhân viên làm việc từ xa thật ra lại gắn kết hơn những nhân viên làm việc toàn thời gian tại văn phòng.

Một nghiên cứu khác của Đại học Stanford cũng đưa ra kết luận rằng hiệu quả làm việc của nhân viên tăng lên khi họ được tạo điều kiện để làm việc từ nhà. Cụ thể, năng suất lao động của những nhân viên làm việc từ xa đã tăng 13%, trong đó 9,5% được đóng góp bởi việc họ làm việc nhiều giờ hơn.

Nhân viên sẽ không thay đổi công việc nếu được làm những việc mà họ yêu thích

Điều này có thể đúng nhưng chưa chắc sẽ giúp nhân viên thành công. Nghiên cứu cho thấy những người thành công không chỉ theo đuổi hạnh phúc của riêng mình mà họ còn quan tâm đến việc làm những điều khiến người khác yêu thích.

Nghiên cứu mang tên “Great Work Study” (Nghiên cứu về thành công trong công việc) đã phân tích 1,7 triệu trường hợp giành được các thành tựu hoặc giải thưởng lớn trong công việc và phát hiện ra rằng 88% số trường hợp này xuất phát từ việc nhân viên đặt câu hỏi: “Tôi có thể tạo ra sự khác biệt nào khiến mọi người yêu thích?”.

Vì vậy, có thể nói rằng những thành tựu đột phá thường phải bắt đầu bằng việc suy nghĩ cho người khác trước.

 

Công việc của người làm tư vấn SAP ERP

Ngày nay việc toàn cầu hoá các quy trình hoạt động của doanh nghiệp càng trở lên phức tạp với rất nhiều các yếu tố và thông số liên kết với nhau. Mặc dù mỗi doanh nghiệp đều có những cơ hội và thách thức riêng, nhưng nếu bạn tập trung nghiên cứu vào bất kỳ một doanh nghiệp nào bạn sẽ thấy rằng các quy trình cơ bản của tất cả các doanh doanh nghiệp là khá giống nhau.

Điều này là khởi nguồn cho việc phát triển hệ thống ERP (hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp – đôi khi còn được gọi là hệ thống quản trị doanh nghiệp tổng thể) làm thay đổi cách thức vận hành mà các doanh nghiệp đã sử dụng từ nhiều thập kỷ trước. SAP là một hệ thống ERP như vậy, nó không chỉ giúp các doanh nghiệp chuyển đổi cách thức mà còn giúp đạt được sự vượt trội trong việc vận hành.

Công việc cơ bản của một tư vấn SAP là dựa trên những thực tiễn tốt nhất theo ngành, lĩnh vực để đưa vào trong doanh nghiệp và bổ sung thêm các giá trị theo đặc thù của các doanh nghiệp tương ứng. Các yếu tố chính và quan trọng nhất để xác định sự thành công của một người làm tư vấn SAP ERP là sự hiểu biết về các quy trình kinh doanh trong doanh nghiệp. Điều quan trọng đối với người làm tư vấn SAP ERP là hiểu rõ các quy trình cụ thể và làm thế nào để các chức năng, nghiệp vụ, quy trình liên kết và tích hợp được với nhau.

Có hai nhóm tư vấn chính trong việc triển khai hệ thống ERP của SAP là tư vấn nghiệp vụ (Functional Consultant) và tư vấn công nghệ (Technical Consultant). Nhóm tư vấn nghiệp vụ tương tác chặt chẽ với khách hàng để nghiên cứu và nắm được quy trình, tìm ra cái mấu chốt của doanh nghiệp và đối chiếu với các yêu cầu từ phía khách hàng. Họ sắp xếp tất cả các khía cạnh với nhau và thực hiện phân tích GAP (một phương pháp và công cụ phân tích về hiệu quả trong doanh nghiệp) và chuẩn bị làm theo mô hình AS/IS TO BE (một mô hình phân tích và mô phỏng hay được dùng trong lĩnh vực ERP) để phù hợp với các yêu cầu kinh doanh.

Sau khi nhóm tư vấn nghiệp vụ thực hiên xong các bước trên và khách hàng phê duyệt mô hình thiết kế mới, họ sẽ làm việc với nhóm tư vấn công nghệ về việc phát triển và tuỳ biến các module để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng. Quá trình này được gọi là quá trình chuyển giao kiến thức và thông qua quá trình này các tư vấn nghiệp vụ sẽ giúp các tư vấn công nghệ thiết kế lộ trình phát triển. Các tư vấn nghiệp vụ thì tuỳ biến các gói theo từng module trong SAP để phù hợp với yêu cầu kinh doanh của khách hàng trong khi các tư vấn công nghệ thì thực hiện công đoạn lập trình, viết mã và chuyển đổi dữ liệu.

Có rất nhiều module trong SAP như SD – bán hàng và phân phối, FI – Tài chính kế toán, CO – kiểm soát, CRM – quản trị quan hệ khách hàng, MM – quản lý nguyên vật liệu, HR – nhân sự,…các module này tương ứng với hầu hết các nghiệp vụ trong phần lớn các lĩnh vực chủ yếu của các doanh nghiệp. Các tư vấn làm việc trong cùng module hay trong các module khác nhau để đảm bảo việc tích hợp các quy trình đương trơn tru, thông suốt.

Nghề tư vấn SAP ERP là một sự lựa chọn lớn, tiềm năng và ngày càng có nhu cầu lớn. Sự phát triển của thị trường ngày càng lớn đồng nghĩa với việc cạnh tranh ngày càng khốc liệt và doanh nghiệp cũng ngày một tăng trưởng và lớn hơn do đó công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp ngày các khó khăn, phức tạp và ERP chính là một xu hướng tất yếu và là một công cụ đắc lực để các nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp sử dụng để ra tăng hiệu quả quản lý và tạo ưu thế cạnh tranh.

Ngoài kiến thức về quy trình, nghiệp vụ kinh doanh, các tư vấn SAP còn phải có kiến thức và hiểu biết về gói phần mềm trong ERP. SAP là một sản phẩm rất linh hoạt và được thị trường đánh giá rất cao và ghi nhận từ trước tới nay. SAP phát triển rất nhiều giải pháp và khẳng định vị trí số một cho các lĩnh vực công nghiệp chuyên biệt như bán lẻ, xăng dầu,…

Khi đã có đủ kiến thức về chuyên môn và kinh nghiệm thực tế từ các dự án, các tư vấn sẽ trở thành các chuyên gia tư vấn SAP ERP. Lúc này công việc của các chuyên gia tư vấn sẽ ở cấp độ cao hơn như tư vấn cho doanh nghiệp theo nhu cầu phát triển và thay đổi hoạt động kinh doanh ở giai đoạn cuối và giúp doanh nghiệp phát triển giải pháp, cập nhật và các công việc liên quan. Trong trường hợp có một quy trình kinh doanh hoặc một tình huống cụ thể mà có thể không xử lý được với các tính năng hiện có của SAP thì chuyên gia sẽ đề nghị doanh nghiệp về việc phát triển các sản phẩm đi kèm (add-on) để giải quyết những vấn đề đó.

Mặc dù thị trường SAP có vẻ “hồng hào” và đầy hứa hẹn, nhưng có những thời điểm lĩnh vực này cũng khá khó khăn cũng như nghề tư vấn SAP ERP. Do đó để trở thành một tư vấn hay một chuyên gia tư vấn trong lĩnh vực này đòi hỏi bạn phải tìm hiểu rõ các thông tin cần thiết về nghề, về lĩnh vực và những đặc thù, thuận lợi, khó khăn. Chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, đầu tư thời gian và thậm chí là tiền bạc để học tập và nghiên cứu và tìm cho mình một môi trường để học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm và thêm vào đó là sự nhiệt huyết và say mê với nghề nghiệp và công việc.

Văn hóa học hỏi tại doanh nghiệp: Phải thay đổi!

Từ nhiều năm qua, các chuyên gia về đào tạo và phát triển đã cho rằng việc đào tạo và học hỏi trong doanh nghiệp sẽ có sự thay đổi lớn.

Josh Bersin – người sáng lập Bersin by Deloitte – dự báo từ hồi đầu năm rằng năm 2015 này “việc học hỏi trong nội bộ doanh nghiệp sẽ thay đổi và trở nên quan trọng hơn trước”. Bersin đã tập trung vào các xu hướng định hình lại nghề quản lý nguồn nhân lực và nêu ra 9 dự báo, theo đó, chính giới làm nhân sự đang góp phần làm mới việc đào tạo và học hỏi trong doanh nghiệp.

Các nghiên cứu dựa vào kết quả của hai trường đại học là MIT (Mỹ) và Oxford (Anh) cho thấy đang có sự gia tăng việc chuyên biệt hóa các kỹ năng ở các vị trí công việc do sự tác động ngoạn mục của kinh tế toàn cầu. Xu hướng này đang làm thay đổi cung cách làm việc hiện nay. Nghiên cứu từ Oxford kết luận là hơn phân nửa số vị trí công việc ngày nay có thể bị loại bỏ trong 10 năm tới.

Bersin ghi nhận: “Những công việc trong lĩnh vực kế toán, pháp luật và dịch vụ và hầu hết việc ở phạm vi công sở đang bị đe dọa sẽ bị loại bỏ hoặc thay đổi tận gốc do sự phát triển của công nghệ”.

Bên cạnh việc công nghệ đang làm thay đổi cách đào tạo và học hỏi các kỹ năng làm việc ngày nay thì Bersin cũng dự báo về sự lớn mạnh nhanh chóng của nội dung đào tạo.

Ví dụ ông nêu ra là xu hướng “MOOC” hiện rất đáng chú ý. Chỉ cần tìm kiếm trên Google từ “MOOC”, đã thấy xuất hiện ở khoảng hơn 9 triệu trang web khác nhau có liên quan. Hóa ra, đó là nguồn nội dung đào tạo được tổ chức như là các khóa học mở, trực tuyến, được xem như các khóa học đại trà, bắt đầu từ các giáo sư của Đại học Stanford (Mỹ), thu hút hàng trăm nghìn người tham dự trên toàn cầu.

Bên cạnh đó, Bersin cũng dự báo về sự xuất hiện của một thị trường mới là thị trường nội dung đào tạo, mà Udemy và OpenSesame là những ví dụ.

Kết luận của Bersin như một lời tư vấn gửi đến những người phụ trách nhân sự tại doanh nghiệp là hãy tập trung vào tạo dựng một sự trải nghiệm học hỏi toàn diện, bao gồm cả việc tạo ra một văn hóa học hỏi, nhằm tập hợp mọi người lại để đáp ứng yêu cầu của nhau và của lãnh đạo. Đồng thời, hiện đại hóa việc đào tạo thông qua công nghệ số.

Những dự báo về xu hướng đó của Bersin được tạp chí HR Magazine quan tâm chọn quan sát thực tiễn của xu hướng, để thấy đây không thuần túy chỉ là một dự báo suông.

Bill Leonard – một cây bút chuyên về nhân sự của tạp chí SHRM, gần đây đã giới thiệu về thực tiễn của xu hướng được Bersin dự báo qua một bài viết nhan đề “2015: Một chuyển biến quan trọng trong học hỏi của doanh nghiệp”. Bài báo mới tập trung mô tả thực tiễn của xu hướng nói trên ở một công ty tên tuổi của Hà Lan, chứ chưa phải là một khảo sát diện rộng.

Đến nay, mọi việc chỉ mới là bắt đầu. Và còn phải có thêm thời gian để xem những dự báo này ứng nghiệm nhanh đến đâu. Hy vọng là sẽ sớm có những kết luận bổ ích về một đường hướng mới rõ ràng trong tổ chức đào tạo và học hỏi, để từ đó các doanh nghiệp có thể áp dụng hiệu quả nhanh hơn cho mình.

Dù vậy, nhận định của Bersin đến lúc này vẫn có ích cho những đơn vị có ý định đầu tư vào học hỏi và đào tạo trong doanh nghiệp và năm 2015 đã đánh dấu sự bắt đầu hiện thực hóa xu hướng trên.„

Câu chuyện đóng thuế thời thế giới phẳng

Sự phát triển của công nghệ luôn đi nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ ra đời của các luật định, nhất là trong vấn đề thuế.

Sự chênh lệch đó có thể được dễ dàng nhận thấy từ việc Google, Facebook kiếm hàng trăm triệu USD mỗi năm từ Việt Nam nhưng chưa nộp thuế, cho đến chuyện người Việt kiếm tiền từ các quốc gia khác thông qua internet cũng không đóng thuế.

Với sự hiện hữu của Visa, MasterCard hay Paypal, việc thanh toán không biên giới diễn ra trong tích tắc. Một người ngồi ở Việt Nam có thể mua hàng ở Singapore và trả tiền qua thẻ thanh toán quốc tế. Tùy mặt hàng mà người bán sẽ nộp thuế cho nước sở tại hoặc không, nhưng chắc chắn là họ sẽ thu lợi nhuận từ Việt Nam nhưng không đóng thuế cho Việt Nam. Trong khi đó, các đơn vị trung gian thanh toán ít ra cũng được vài phần trăm phí dịch vụ.

Tương tự, câu chuyện muôn thuở mà Việt Nam vẫn chưa tìm ra lời giải là việc Google và Facebook thu từ đất nước chúng ta hàng trăm triệu USD mỗi năm, nhưng cũng không chi một đồng tiền thuế nào.

Ngược lại, cũng có một số hình thức kinh doanh mà người Việt kiếm tiền từ các đơn vị khác trên các quốc gia khác, nhưng cũng không phải đóng thuế thu nhập cá nhân. Đơn cử là dịch vụ quảng cáo Google AdSense.

Ví dụ, cá nhân hoặc tổ chức có website hay video đăng tải lên YouTube có lượt truy cập cao sẽ có thể đặt quảng cáo của Google AdSense để kiếm tiền từ đó. Hằng tháng, Google sẽ trả tiền cho các nhà phát hành nội dung này. Hiện không có thống kê số tiền Google chi ra cho tất cả các nhà phát hành nội dung tại Việt Nam, nhưng chắc chắn con số đó là không nhỏ vì chúng ta có công thức để tính.

Cụ thể, một trang web tin tức có lưu lượng truy cập khoảng 42 triệu lượt xem/tháng thì sinh ra doanh thu 2.000 USD/tháng từ AdSense. Vào ngày 20 tháng kế tiếp, Google sẽ phát hành lệnh thanh toán. Nhà phát hành nội dung có thể khai báo để nhận trực tiếp bằng tài khoản ngân hàng tại Việt Nam, hoặc chọn nhận qua Western Union. Khi đó, Google sẽ phát hành séc và nhà phát hành chỉ việc cầm séc ra ngân hàng nhận tiền. Với cả 2 hình thức trên, nhà phát hành đều không bị thu một đồng tiền thuế thu nhập nào.

Cùng kịch bản với những câu chuyện kể trên, nhưng cha đẻ của Flappy Bird, Nguyễn Hà Đông, vừa phải đóng 1,4 tỉ đồng tiền thuế tại Việt Nam. Với doanh thu đã nhận từ trò chơi này, có khả năng anh phải đóng số tiền thuế lên đến 10 tỉ đồng. Doanh thu Flappy Bird là từ AdMob, một dịch vụ quảng cáo của Google, tương tự như AdSense nhưng chuyên biệt cho phần mềm di động.

Có thu nhập thì phải đóng thuế, nhưng có vẻ con số 10 tỉ đồng là cái giá phải trả cho sự nổi tiếng của Flappy Bird. Vì nếu “im hơi lặng tiếng” như bao nhiêu nhà phát hành khác, sẽ chẳng ai biết Nguyễn Hà Ðông để đánh thuế.

Thậm chí, đến đơn vị lớn như Lazada cũng kinh doanh sản phẩm mà theo họ quảng cáo trên website là hàng nhập khẩu, còn mọi người quen gọi là hàng xách tay. Những sản phẩm này không nhập khẩu chính ngạch nên cũng sẽ không phải đóng thuế cho Việt Nam, nhất là khi đa số khách mua hàng là cá nhân nên không yêu cầu xuất hóa đơn giá trị gia tăng. Còn nếu có ai đó yêu cầu, Lazada sẽ xoay bằng cách thương lượng với người mua nhận hóa đơn xuất cho mặt hàng khác, miễn sao đúng với số tiền họ mua. Ðã có tình huống Lazada gom nhiều hóa đơn điện thoại Nokia để xuất cho khách mua iPhone cần hóa đơn để nộp cho công ty.

Đồng tiền đi liền khúc ruột. Cá nhân và doanh nghiệp sẽ chỉ trả tiền thuế cho những khoản bắt buộc có thể hiện và ràng buộc bằng luật. Còn nếu muốn họ tự giác thực hiện nghĩa vụ, họ sẽ yêu cầu được đối xử công bằng. Nghĩa là ai kiếm tiền từ Việt Nam cũng phải đóng thuế cho Việt Nam. Quan trọng hơn, tiền thuế ấy cần được sử dụng đúng mục đích.

BIDV khó trở thành cổ đông chiến lược của ACV

Chiếu theo những tiêu chí về nhà đầu tư chiến lược của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) đã được Bộ GTVT phê duyệt thì Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) khó có thể trở thành cổ đông chiến lược của ACV.

Tính đến thời điểm này, chỉ có hai công ty là Tập đoàn Aeroport de Paris (ADP) của Pháp và Ngân hàng BIDV đã gửi văn bản đề nghị làm cổ đông chiến lược tại ACV. Tập đoàn ADP đề nghị mua toàn bộ số cổ phần bán ra tại đây (20% cổ phần – NV), còn BIDV đề nghị mua 5% cổ phần.

Theo tiêu chí đã được Bộ GTVT phê duyệt mới đây thì muốn đăng ký mua cổ phần tại ACV với tư cách nhà đầu tư chiến lược, cổ đông phải đáp ứng một trong số ba điều kiện sau:

(1) Nếu nhà đầu tư là doanh nghiệp hoạt động cùng lĩnh vực cảng hàng không thì phải có doanh thu tối thiểu hàng năm là 1,5 tỉ đô la Mỹ, hiện đang vận hành khai thác 10 cảng hàng không. Ngoài ra, báo cáo tài chính của doanh nghiệp năm 2014 không có lỗ lũy kế, lợi nhuận năm 2014 tối thiểu 10% doanh thu. Vốn chủ sở hữu doanh nghiệp không thấp hơn 2 tỉ đô la Mỹ hoặc tương đương.

(2) Nếu nhà đầu tư là tổ chức tài chính thì phải có vốn chủ sở hữu hết năm 2014 không thấp hơn 5 tỉ đô la Mỹ hoặc tương đương. Báo cáo tài chính năm 2014 không lỗ lũy kế và và lợi nhuận năm 2014 tối thiểu bằng 5% doanh thu.

(3) Nếu nhà đầu tư không thuộc hai trường hợp nêu trên thì có thể là doanh nghiệp được thành lập dưới hình thức tổ hợp các nhà đầu tư liên doanh với nhau (tối đa là 3 nhà đầu tư tổ chức thành một tổ hợp). Trong tổ hợp này có thể có các nhà đầu tư kinh doanh nhiều lĩnh vực khác nhau song ít nhất phải có một nhà đầu tư là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực quản lý khai thác cảng hàng không với quyền quản lý khai thác hoặc được thuê để quản lý, khai thác 5 sân bay trở lên. Doanh nghiệp hàng không trong tổ hợp này phải có doanh thu năm 2014 tối thiểu 1 tỉ đô la Mỹ và vốn chủ sở hữu tại thời điểm hết năm 2014 không thấp hơn 2 tỉ đô la Mỹ.

Nếu chiểu theo các tiêu chí theo thứ tự nêu trên thì tập đoàn ADP là ứng cử viên số một. ADP đang quản lý vận hành 37 cảng hàng không trên toàn thế giới, trong đó có các sân bay lớn như Charles de Gaulle (Paris, Pháp) và các sân bay tại Nam Mỹ, Châu Âu, Châu Á với doanh thu hàng năm hơn 3 tỉ euro.

Riêng về trường hợp Ngân hàng BIDV, chiếu theo tiêu chí thứ hai thì vốn chủ sở hữu của BIDV hiện nay mới là 34.187 tỉ đồng, tính ra chưa đầy 2 tỉ đô la Mỹ trong khi tiêu chí nhà đầu tư tài chính phải có vốn chủ sở hữu khoảng 5 tỉ đô la Mỹ.

Theo một thành viên Ban chỉ đạo cổ phần hóa ACV, nếu BIDV vẫn muốn trở thành đối tác chiến lược tại đây thì phải liên doanh với các nhà đầu tư khác để trở thành tổ hợp nhà đầu tư; sau đó tổ hợp này sẽ tham dự đấu giá (nếu có nhiều nhà đầu tư cùng tham gia) hoặc mua bán thỏa thuận (nếu chỉ có một nhà đầu tư tham gia).

Chỉ vài ngày nữa, ngày 10-12-2015, ACV sẽ thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) và giá IPO được xem là một căn cứ để bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược.

Tuy nhiên, việc chọn cổ đông chiến lược cho một doanh nghiệp lớn như ACV dự kiến sẽ kéo dài vì tính chất phức tạp và quy mô của đợt bán cổ phần. Như trường hợp của Vietnam Airlines chẳng hạn, hơn một năm sau cổ phần hóa, hãng vẫn chưa chọn được, chưa công bố được tên của đối tác chiến lược.