Monthly Archives: December 2017

Quản trị nhân sự bằng chức danh

Nghiên cứu cho rằng các chức danh công việc có khả năng khiến ta cảm thấy tích cực hơn và cảm giác đang làm chủ tình hình, thậm chí khuyến khích chúng ta nộp hồ sơ tuyển dụng cho việc đó.

Xu hướng thổi phồng

Một báo cáo năm 2012 của Resolution Foundation, một nhóm chuyên gia cố vấn người Anh, đã phát hiện tình trạng thổi phồng chức danh ở Anh tăng lên, với nhiều người có chức vụ “có vẻ là cao cấp” nhưng chỉ được trả mức lương trung bình.

Ví dụ tỷ lệ những viên quản lý bán lẻ có mức thu nhập một tuần dưới 400 bảng Anh (543 đô la) tăng từ 37% lên 60% trong những năm 2000. Điều này đặt ra câu hỏi: Thăng chức danh có nghĩa lý gì nếu không đi kèm với tăng lương thưởng?

Trước hết phải kể đến địa vị. Nhà kinh tế học được trao giải Nobel John Harsanyi đã từng nói rằng ngoài vấn đề tiền bạc, địa vị xã hội “dường như là sức mạnh khuyến khích và thúc đẩy quan trọng đối với các hành vi trong xã hội”.

Một chức danh cao có thể biểu thị địa vị xã hội, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi người lao động mong mỏi có được chúng dù chúng thường không phù hợp với mức lương hoặc trách nhiệm công việc.

Một nghiên cứu năm 2010 của Đại học Houston cho thấy chức vụ ‘phó chủ tịch’ tại ngân hàng Merrill Lynch nghe thì có vẻ như là “rất danh giá”. Nhưng trên thực tế, nó lại mang ý nghĩa vinh danh nhiều hơn là miêu tả công việc thực tế.

Chức danh hào nhoáng

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã nhận ra một chức danh hào nhoáng không phải lúc nào cũng liên quan đến địa vị. Một chức danh chỉ cần thú vị hơn đã có thể ảnh hưởng đến hành vi con người.

Sau khi tham dự một hội nghị tại Disneyland vào năm 2013 và phát hiện ra các nhân viên ở đây được gọi là “thành viên đoàn làm phim”, bà Susan Fenters Lerch thấy rất hào hứng.

Cựu Tổng giám đốc điều hành của Quỹ Make-A-Wish, một tổ chức phi lợi nhuận biến mong ước của các trẻ em trong tình trạng sức khỏe nguy kịch thành hiện thực, trở lại văn phòng và cho nhân viên của bà biết họ có thể tự tạo ra “chức danh ‘vui nhộn’ của riêng mình bên cạnh chức danh chính thức, phù hợp với “vai trò và đặc tính quan trọng nhất của họ trong tổ chức.”

Bà đã chọn “mẹ đỡ đầu của những ước mơ” cho mình, và giám đốc điều hành đã theo sau với tên “bộ trưởng đô la và tri giác”. Các nhà nghiên cứu từ Đại học Pennsylvania và London Business School đã phỏng vấn những nhân viên này một năm rưỡi sau quyết định của Lerch và nhận thấy những chức danh “tự phản ánh” của họ làm giảm tình trạng suy kiệt cảm xúc ở người lao động, giúp họ đương đầu với những thách thức về cảm xúc và cho họ cơ hội khẳng định cá tính của mình trong công việc.

Nhà nghiên cứu Daniel Cable cho biết: “Chức danh mở ra cơ hội để các đồng nghiệp nhìn thấy khía cạnh con người của nhau chứ không đơn thuần chỉ đại diện cho các trách nhiệm khác nhau.”

Cable và nhóm của ông sau đó đã thử nghiệm phát hiện của mình trong các bệnh viện, nơi họ yêu cầu các nhân viên y tế tự đặt chức danh cho mình.

Một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm đã trở thành “dũng sỹ diệt trùng”, và một kỹ thuật viên tia X được phong làm “người tìm xương”.
Những người làm việc trong bệnh viện cho biết họ cảm thấy mức độ suy kiệt tinh thần thấp hơn sau 5 tuần, và tình trạng kiệt sức giảm 11%.

Mức độ liên quan chặt chẽ của chức danh công việc đối với cảm xúc của chúng ta cho thấy chúng có thể phản ánh danh tính của chúng ta – nhưng danh tính có thể đã là một nhân tố thậm chí trước cả khi chúng ta xin việc.

Vào đầu năm 2015 Công ty truyền thông xã hội Buffer nhận ra rằng họ không có một nhân viên kỹ thuật nữ nào. Sau đó công ty này đã thay thế từ “tin tặc” (hacker) trong các chức danh công việc bằng “nhà phát triển” (developer) – và sau đó số lượng các ứng viên nữ xin vào công ty đã gia tăng. Hiện tại 11,5% đội ngũ kỹ thuật viên là nữ.

Ảnh hưởng hành vi

Các nhà nghiên cứu nhận thấy một chức danh cao cấp hơn có thể khiến nhân viên hành động có trách nhiệm hơn vì họ thấy vui vẻ hơn trong công việc. Giáo sư xã hội học Jeffrey Lucas phát hiện ra rằng khi các nhân viên làm việc tốt được cho giữ chức danh quan trọng, họ sẽ ít có khả năng rời bỏ công ty hơn.

Ông đã thực hiện hai thí nghiệm và khám phá ra những người giữ chức danh quan trọng “thể hiện mức độ hài lòng, quyết tâm và hiệu suất cao hơn, đồng thời ít có ý định nhảy việc” hơn những người khác. Nghiên cứu này là từ năm 1999, và như vậy đã gần hai thập kỷ. Tuy nhiên, Lucas, hiện làm việc tại Đại học Maryland, cho biết ông nghĩ rằng những phát hiện này vẫn còn có giá trị.

Ông nói, “trên thực tế, rất nhiều nghiên cứu kể từ sau bài nghiên cứu đó đã chứng thực mọi người thích hưởng những lợi ích đến từ các vị trí cao cấp hơn.” “Tuy nhiên cái quan trọng là những chức danh này phải có khả năng khẳng định địa vị, nếu không thì chúng sẽ không có tác động tích cực.”

Những người có chức danh cao thường ứng phó tốt hơn trong trường hợp bị từ chối, theo một nghiên cứu hồi 2013 của Đại học Berkeley. Maya Kuehn, hiện đang bảo vệ bằng tiến sỹ, trong một thử nghiệm, đã chỉ định những người tham gia đóng những vai trò ở cấp độ thấp hoặc cao và nói rằng họ không được mời đến cuộc họp mặt văn phòng.

Những thành viên được chỉ định ở mức độ thấp cho biết họ cảm thấy bị tổn thương, trong khi những người được chỉ định vị trí cao tìm cách khác để gắn kết với các đồng nghiệp.

Hơn cả ăn ý

Những công việc thể hiện một cơ cấu phẳng có thể khiến những người thấp cổ bé họng cảm thấy tự tin hơn. Brian Robertson nói rằng hệ thống holacracy (mô hình quản trị không cần sếp) của mình giúp người lao động cảm thấy bản thân không chỉ là một bánh răng trong guồng máy.

Khi Brian Robertson thành lập công ty phần mềm HolacracyOne vào năm 2007, ông đã cơ cấu lại hệ thống phân quyền truyền thống ở nơi làm việc với mục đích tăng khả năng tự chủ và tự quản của người lao động.

Phương pháp này, với tên gọi holacracy đã được khoảng 1.000 công ty và tổ chức tiếp nhận. Robertson nói mô tả công việc đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc này – thay vì chỉ có một công việc, các nhân viên sẽ nắm nhiều vai trò và những nhiệm vụ này được cập nhật thường xuyên.

Đây là một điều chỉnh phù hợp cho những người ưa thích địa vị. Đối với những người khác, nó giúp họ cảm thấy “mình không chỉ là một bánh răng trong guồng máy”.

Thay vì cho rằng chức danh mang lại danh tính cho mình, người ta lại bắt đầu nghĩ rằng ‘tôi biết mình là ai, tôi biết mình đam mê điều gì và làm cách nào để thể hiện mình,” Robertson nói.

Chiến lược thất bại khôn ngoan

Có lúc “lực bất tòng tâm”, điều kiện kinh doanh khắc nghiệt, đối thủ to lớn, hùng mạnh, tiềm lực của ta thua kém nhiều mặt…thì hãy chọn con đường thua cuộc khôn ngoan.

Hiểu xây dựng chiến lược chỉ để chiến thắng, tăng trưởng hay phát triển bền vững là những cách hiểu lạc quan trong bối cảnh “tươi sáng”, môi trường kinh doanh thuận lợi. Nhưng nếu người nghe, người hiểu cứ thế áp dụng máy móc vào doanh nghiệp thì sẽ hết sức nguy hiểm.

Có người nói chiến lược là để tăng trưởng (to grow), người khác nói là để chiến thắng (to win), hoặc để giành lợi thế cạnh tranh (to gain competitive advantage), và nhiều ý kiến khác cho rằng chiến lược là để phát triển bền vững (for sustainable development)… Nghe hoành tráng và hấp dẫn lắm, chứ ít ai nói chiến lược là để thu hẹp, cắt giảm…, càng ít người nói là để rút lui khỏi một số ngành hay thị trường. Và gần như chưa thấy ai nói chiến lược là để… thất bại theo cách thức tối ưu.

Hiểu chiến lược chỉ để chiến thắng, tăng trưởng hay phát triển bền vững là những cách hiểu lạc quan trong bối cảnh “tươi sáng”, môi trường kinh doanh thuận lợi. Nhưng nếu người nghe, người hiểu cứ thế áp dụng máy móc vào doanh nghiệp thì sẽ hết sức nguy hiểm. Chiến lược để cạnh tranh và chiến thắng thì miễn bàn, nhưng cũng có lúc “lực bất tòng tâm”, điều kiện kinh doanh khắc nghiệt, đối thủ to lớn, hùng mạnh, tiềm lực của ta thua kém nhiều mặt… thì làm sao chiến thắng được.

Khi đó, hãy chọn con đường thua cuộc khôn ngoan, thay vì cứ đối đầu trực diện, quyết đánh bại đối thủ, giành chiến thắng thì chẳng khác nào “lao đầu vào đá”. Thua cuộc khác với bỏ cuộc, mặc dù trong nhiều trường hợp, bỏ cuộc cũng là lựa chọn mang tầm chiến lược và cũng có thể là lựa chọn khôn ngoan.

Thua cuộc là chấp nhận đứng thứ nhì, thứ ba, hoặc ở vị trí thấp hơn, sao cho đối thủ không nhìn thấy, hoặc có thấy thì cũng chẳng cần quan tâm. Khi đó, mục tiêu của doanh nghiệp không phải là số 1, là dẫn đầu hay chiến thắng áp đảo, mà là sự nhượng bộ cần thiết, sự “nép mình” khôn ngoan như cách “tránh voi chẳng xấu mặt nào”.

Bỏ thành thị, về nông thôn cũng có thể coi là chiến lược chấp nhận thất bại (ở thành thị) mà nhiều doanh nghiệp đã và đang làm. Bỏ phân khúc cao, tập trung vào phân khúc thấp về bản chất là chiến lược thua cuộc (ở phân khúc cao) mà nhiều doanh nghiệp vẫn đang áp dụng. Cầm cự ở mảng taxi và dịch chuyển đầu tư sang mảng xe ôm công nghệ là chiến lược thua cuộc ở thị trường taxi, nhưng tìm cách chiến thắng ở thị trường xe ôm. Thu hẹp dòng sản phẩm này, đẩy mạnh phát triển dòng sản phẩm kia là chiến lược lùi bước ở dòng sản phẩm thu hẹp đó (để tìm kiếm cơ hội ở dòng sản phẩm khác).

Một đại gia ngành ngân hàng từng áp dụng chiến lược thất bại (trong ngành ngân hàng) để mở rộng mặt trận mía đường và các mặt trận khác. Một đại gia bán phở từng áp dụng chiến lược từ bỏ (exit) việc kinh doanh phở để… nghiên cứu xem có thể làm gì khác, và còn chưa biết sẽ làm gì… Ai bảo những thất bại hay bỏ cuộc này là không có chiến lược hay kém khôn ngoan?

Còn hàng trăm, hàng ngàn ví dụ có thể nêu ra ở đây để chứng minh rằng thua cuộc hay chấp nhận thất bại ở một mặt trận nào đó, hay thậm chí tất cả các mặt trận để rút về làm chuyện khác, mở mặt trận khác cũng là chiến lược cần được hoạch định một cách cẩn trọng và chuyên nghiệp.

Chúng ta thường nói, thường nghe về chiến lược chiến thắng (winning strategy) hay chiến lược tăng trưởng (growth strategy), nhưng những chiến lược mà nhiều doanh nghiệp vẫn thường áp dụng là chiến lược thu hẹp (retrenchment strategy), chiến lược cắt giảm (divestiture strategy), chiến lược thanh lý (liquidation strategy) và cả chiến lược rút lui hay đào thoát (exit strategy).

Lẽ thường, chiến thắng hay tăng trưởng luôn có sức hấp dẫn rất cao, và nhiều doanh nghiệp cũng vì thế mà bất chấp, cứ lao vào. Còn thu hẹp, từ bỏ, hay rút lui luôn kém hấp dẫn, nếu không muốn nói là hết sức khó khăn. Vậy nhưng, như trên đã nói, tiến hay lùi đều cần chiến lược. Lùi một bước để tiến hai bước, hay lùi để giảm thiểu thiệt hại đều cần sự tính toán, cân nhắc hết sức cẩn trọng.

Thoái lui hay thoát ra một cách khôn ngoan để dành tâm sức, nguồn lực làm việc khác, tại sao không?

Testimonials – công cụ cải thiện trải nghiệm khách hàng hiệu quả

Gần đây, thuật ngữ thông dụng đang “gây bão” trong giới tiếp thị chính là “trải nghiệm khách hàng” (Customer Experience). Theo Forbes, “trải nghiệm khách hàng chính là chuẩn mực kinh doanh ngày nay”.

Theo một nghiên cứu gần đây của Forrester (một công ty nghiên cứu thị trường của Hoa Kỳ), các doanh nghiệp dẫn đầu về trải nghiệm khách hàng tăng trưởng doanh thu hàng năm đến 17% và duy trì trong 5 năm, so với chỉ 3% của các công ty chậm chân hơn.

Vậy doanh nghiệp của bạn nên làm gì?

Cách bắt đầu dễ dàng nhất là sử dụng các testimonials – lời nhận xét của khách hàng sau khi trải nghiệm sản phẩm/dịch vụ để cải thiện trải nghiệm khách hàng. Nếu được sử dụng chính xác, những nhận xét này có thể giúp bạn tiếp cận khách hàng tiềm năng, chăm sóc khách hàng hiện hữu và cải thiện doanh nghiệp dựa trên phản hồi từ khách hàng. Và dưới đây là những điều cần lưu ý khi sử dụng công cụ Testimonials:

Cung cấp thông tin cho khách hàng tiềm năng

Theo một cuộc thăm dò ý kiến người tiêu dùng của BrightLocal (trang web về các công cụ tiếp thị trực tuyến), 84% khách truy cập website tin tưởng các bài đánh giá trực tuyến cũng như đề xuất cá nhân của bạn bè. Những đánh giá này, được viết trên trang web của bạn, sẽ cung cấp các thông tin có giá trị về doanh nghiệp cho các khách hàng tiềm năng. Họ chia sẻ chi tiết về sản phẩm/dịch vụ của bạn từ quan điểm của người dùng trực tiếp, ngay lập tức các khách hàng tiềm năng mới có thể phát triển niềm tin với sản phẩm của bạn.

Chìa khóa ở đây là hiển thị những ý kiến đánh giá dưới định dạng dễ xem và dễ tìm kiếm. Khi khách hàng ghé thăm trang web của bạn, họ sẽ muốn biết ngay liệu sản phẩm/dịch vụ của bạn có phù hợp với nhu cầu của họ hay không. Lúc này, nhận xét từ những khách hàng khác có thể giúp họ có được thông tin này ở định dạng thân thiện hơn nhiều so với quảng cáo bán hàng. Điều này còn đảm bảo thông tin quan trọng về doanh nghiệp thực sự đến được với khách hàng, và được tin tưởng. Giữa quảng cáo thương mại với lời khuyên từ bạn bè, hình thức sau sẽ đáng tin cậy hơn.

Điều cần lưu ý là những nhận xét đăng lên phải đáng tin và xác thực, đừng để khách hàng phải tự đặt câu hỏi: “Cái này có đáng tin không hay chỉ là tự viết?”.

Giúp khách hàng hiện hữu cảm thấy được trân trọng

Trải nghiệm khách hàng không nên chỉ nhắm đến khách hàng mới. Thực tế, trong khi hầu hết các doanh nghiệp dành đến 80% ngân sách tiếp thị để thu hút khách hàng mới thì 40% tổng doanh thu lại đến từ khách hàng hiện tại, theo dữ liệu từ Adobe. Như vậy, điều quan trọng là đảm bảo khách hàng hiện tại của bạn cảm thấy được trân trọng, và đó là lúc nhận xét của khách hàng trở nên hiệu quả.

Khi bạn hỏi khách hàng về phản hồi cho sản phẩm/dịch vụ, sau đó đăng phản hồi đó lên website, bạn đang thể hiện bạn đánh giá cao và lắng nghe họ. Nó sẽ giúp tối đa hóa lòng trung thành của khách hàng, từ đó biến họ thành khách hàng trọn đời.

Theo Luxury Institute (công ty tư vấn về trải nghiệm khách hàng), chỉ có 27% khách hàng sẽ mua tiếp sau lần mua đầu tiên, nhưng con số này tăng gấp đôi nếu họ đã mua lần thứ hai hoặc ba.

Cho khách hàng thấy bạn trung thành với họ, họ cũng sẽ hành động tương tự. Tuy nhiên, sự trung thành đó sẽ chỉ có giá trị nếu như bạn cải thiện theo các phản hồi của khách hàng. Nếu bạn không để tâm đến điều khách hàng nói, thì họ cũng sẽ không quan tâm đến việc bạn có chia sẻ nhận xét của họ hay không, mà điều này lại ảnh hưởng đến bước tiếp theo.

Thúc đẩy các thay đổi trong công ty

Đánh giá của khách hàng không chỉ là những công cụ bán hàng quý báu, mà còn là sự hiểu biết sâu sắc về khách hàng mà từ đó bạn có thể chuyển đổi thành hàng hóa hoặc dịch vụ cho doanh nghiệp mình. Ví dụ, nếu khách hàng đánh giá ba sao vì quy trình chuyển hàng của bạn quá đắt và chậm, ngay lập tức bạn sẽ biết vấn đề ở đâu để sửa chữa. Mặt khác, các phản hồi này cũng giúp nhấn mạnh ưu điểm mà bạn có thể sử dụng trong các kế hoạch tiếp thị tiếp theo. Chỉ có khách hàng mới là cố vấn tốt nhất của bạn.

Điều quan trọng là bạn phải sử dụng được các phản hồi này trong quyết định kinh doanh của mình. Ví dụ, nếu bạn đang lên kế hoạch nâng cấp trang dịch vụ vì bạn nghĩ nó đã quá lỗi thời, nhưng khách hàng lại phản hồi rằng bạn nên thay đổi thanh điều hướng vì họ thấy không thoải mái khi dùng, thì bạn nên thay đổi theo khách hàng yêu cầu. Đó chính là trải nghiệm khách hàng.

Càng nhiều thay đổi theo phản hồi khách hàng, thì bạn càng đáp ứng nhu cầu của họ tốt hơn.

Đúng lúc, đúng thời điểm, nhưng phải đúng cách

Nếu chỉ đơn giản là đăng nhận xét của khách hàng một cách ngẫu nhiên lên trang web, chắc chắn không hiệu quả. Bạn cần có chiến lược về vị trí và phong cách của các nhận xét ấy.

Nếu công ty của bạn cung cấp nhiều giải pháp cho khách hàng, mỗi trang giải pháp cần hiển thị một nhận xét có liên quan cụ thể cho dịch vụ đó. Ví dụ, doanh nghiệp của bạn cung cấp các dịch vụ thiết kế nội thất, cùng với dọn dẹp hay vệ sinh nhà cửa thì khi khách hàng đang xem phần thiết kế nội thất, họ sẽ không để tâm đến các nhận xét về dịch vụ dọn dẹp. Thay vào đó, tốt nhất là đặt nhận xét liên quan đến thiết kế nội thất từ các khách hàng đã sử dụng dịch vụ này. Đây sẽ là nguồn thông tin hữu ích cho các khách hàng tiềm năng.

Khi doanh nghiệp tập trung vào việc cải thiện trải nghiệm khách hàng từng bước một, nhận xét của khách hàng chính là chìa khóa tiếp cận. Bằng cách này, bạn sẽ tăng cơ hội có khách hàng trung thành, liên tục mua hàng sau đó, và thậm chí còn giới thiệu về bạn đến bạn bè và gia đình mình.

Nâng tầm bản thân trong năm 2018

Nếu muốn nâng tầm giá trị bản thân nhằm thăng tiến hay tìm công việc tốt hơn vào năm sau thì bạn có thể tham khảo 5 cách thức sau.

Năm 2018 đang đến gần. Thời điểm này, bạn nên định ra mục tiêu nghề nghiệp trong năm sau và nhìn nhận xem mình đang ở đâu. Nếu muốn đạt được các kế hoạch mới thì bạn có thể nâng tầm giá trị bản thân thông qua 5 lời khuyên từ Business Insider.

Tham gia các sự kiện trong ngành

Một trong những cách hữu hiệu nhất để định vị bản thân vì một cơ hội nghề nghiệp tốt hơn chính là tham dự các hội thảo, hội nghị hoặc sự kiện liên quan đến ngành nghề của bạn. Thực tế, nhiều công ty cũng yêu cầu nhân viên của mình tham dự các sự kiện để đại diện cho tổ chức hoặc giúp người lao động có cơ hội học hỏi thêm.

“Nếu bạn từng vắng mặt tại các hội nghị trong quá khứ thì bạn đã làm tổn thương cơ hội nghề nghiệp của mình. Bằng cách tham dự các sự kiện, bạn tăng cường mạng lưới quan hệ mình có. Bạn biết hoặc đột nhiên được biết rất nhiều người trong ngành. Bạn có thể xây dựng các kỹ năng và kinh nghiệm. Bạn cũng có nhiều cơ hội để cập nhật những chính sách, thông tin, nguồn lực trong ngành để phát triển nghề nghiệp”, Dan Fox – Nhà sáng lập của Boss Laser nhận định.

Nâng cấp trình độ chuyên môn

Một cách khác để nâng cao cơ hội nghề nghiệp trong năm 2018 là nâng cấp trình độ chuyên môn. Nếu bạn chưa có bằng thạc sĩ, bạn nên lập kế hoạch theo học từ bây giờ. Lý do là nhiều tổ chức chấp nhận cất nhắc một mức lương cao hơn nếu bạn có thêm trình độ chuyên môn. Quan trọng hơn, bạn khó lòng leo lên vị trí cao hay quản lý mà không có bằng cấp cao.

“Bằng cấp cao có thể giúp bạn đảm bảo việc quảng bá bản thân như bạn mong muốn. Một tấm bằng tiến sĩ hay thạc sĩ cũng sẽ làm gia tăng sự tự tin và giúp bạn có cơ hội nghề nghiệp tốt hơn khi tìm kiếm công việc mới”, chuyên gia Ayodeji Onibalusi  của Effective Inbound Marketing cho biết.

Tăng cường quan hệ với đồng nghiệp, cấp trên

Khi chúng ta đang sẵn sàng bước sang năm 2018, một trong những câu hỏi bạn nên nhìn lại chính là bạn đang ở đâu trong mối quan hệ với đồng nghiệp và cấp trên. Liệu bạn đang có mối quan hệ tốt đẹp với họ không? Bạn có tin rằng chỉ cần tập trung vào làm việc thì mình có cơ hội thăng tiến trong công ty? Nếu bạn không có mối quan hệ tốt với đồng nghiệp và cấp trên thì họ có thể quay lại làm khó bạn.

Trên thực tế, theo các chuyên gia, rất khó và hầu như không thể thăng tiến trong công việc nếu không có một mối quan hệ tốt với cấp trên và đồng nghiệp. Nếu bạn còn làm lơ hay lười biếng kết giao với một số người thì cần thay đổi ngay bây giờ.

Cập nhật hồ sơ năng lực bản thân

Một cách vô tình, nhiều người tự hạn chế cơ hội nghề nghiệp bản thân vì ít cập nhật hồ sơ năng lực bản thân (CV hay Portfolio). Thậm chí, một số không cập nhật thông tin bản thân trong nhiều năm. Kết quả, kinh nghiệm làm việc cho đến hiện tại của họ không được các doanh nghiệp hay công ty săn đầu người biết đến. Do đó, nếu đã tham gia mạng xã hội nhân sự LinkedIn hay có tài khoản tại các kênh tuyển dụng trực tuyến thì bạn nên thường xuyên cập nhật những thành tích mới nhất. Rất nhiều công ty đang dựa vào hồ sơ trực tuyến mà bạn đăng tải trên mạng để tìm ra người đúng yêu cầu.

“Việc thiết lập thời gian biểu để định kỳ cập nhật thông tin năng lực bản thân lên các phương tiện truyền thông xã hội là một ý tưởng tốt. Bạn có thể thực hiện điều này hàng quý. Ví dụ như thông tin mới về các giải thưởng mà bạn nhận, các kinh nghiệm lãnh đạo và các hội nghị mà bạn đã tham gia”, chuyên gia Jonathan Marshall của Middlesex County Criminal Law khuyến nghị.

Nâng cấp tủ quần áo

Nếu bạn thắc mắc quần áo thì ảnh hưởng gì đến cơ hội nghề nghiệp, thì đây là lúc bạn cần minh định rõ. Theo Yasir Khan, chuyên gia tiếp thị trực tuyến và là nhà sáng lập Quantum SEO Labs, cách ăn mặc hoàn toàn ảnh hưởng đến triển vọng nghề nghiệp và cơ hội của mỗi người.

Theo một cuộc khảo sát của OfficeTeam, 80% các CEO được hỏi nói rằng cách ăn mặc của nhân viên có ảnh hưởng đến quyết định họ được thăng cấp hay không. Một số nghiên cứu khác tại Mỹ cũng chỉ ra mối liên hệ giữa cách ăn mặc với sự tự tin và cơ hội nghề nghiệp. Nếu muốn được coi trọng hơn và không bị tuột mất các cơ hội nghề nghiệp thì bạn nên đánh giá lại phong cách ăn mặc của mình mà nâng cấp tủ quần áo.

Hiệu ứng FOMO và nỗi sợ của tuổi trẻ

FOMO, hay hiệu ứng “Fear of Missing Out”, là một khái niệm hướng con người tin rằng người khác luôn vui vẻ, hạnh phúc hơn mình.

Trong thời đại của mạng xã hội cùng các phương tiện kết nối lên ngôi, chúng ta dễ dàng so sánh cuộc sống của mình với người khác để rồi nhận ra rằng có nhiều người sao vui vẻ và hạnh phúc đến thế. Đó cũng là lúc mà FOMO xuất hiện, chúng ta làm mọi thứ, tốn tiền bạc, thời gian để được giống như người khác.

Hiệu ứng này thực chất được sinh ra do trí tưởng tượng của con người, nó khiến chúng ta đưa ra những quyết định dựa trên cảm tính chứ không phải nhu cầu thực tế hay mong muốn bản thân.

Ai cũng mắc phải FOMO, theo cách này hay cách khác. Chỉ có điều là chúng ta hướng tới những mong muốn khác nhau, với một số người là các sản phẩm đắt tiền, hàng hiệu hay những bữa ăn sang chảnh… Còn với tác giả dưới đây, anh gặp phải FOMO liên quan tới du lịch, và dưới đây là câu chuyện của anh.

“FOMO cũng giống như một cơn nghiện, chỉ có điều chúng ta không hấp thụ nó, nó giống như một cơn nghiện mua sắm trong khi chúng ta không thể, không nên làm nó”, Mark Manson.

Trong nhiều năm liền, Mark Manson nghĩ rằng mình thích đi du lịch. Chỉ cần nhìn những tấm ảnh về danh lam thắng cảnh trên thế giới, anh sẵn sàng làm mọi thứ để tới được đó, thậm chí bán dần tài sản của mình. FOMO của Mark khá nặng khi mà anh muốn thực hiện điều đó ngay lập tức, bằng mọi cách.

Đa phần trong những lần muốn đi, Mark Manson đều cố gắng thực hiện mong muốn của mình. Vị chi nó đã tiêu tốn của anh hàng chục nghìn USD để đi khắp nơi trên thế giới và rồi có rất nhiều tấm ảnh để câu like trên mạng xã hội.

Và dưới cương vị của một người đi rất nhiều, Mark cho rằng đa phần những danh lam thắng cảnh kia chẳng đẹp như trong ảnh, nhiều nơi thậm chí còn đáng thất vọng. Quan trọng hơn hết, anh không hề vui khi làm được những điều này.

Vậy chuyện gì đang xảy ra?

Mark gặp phải hiệu ứng ngược lại, khi mà những nơi anh đến chẳng làm anh vui. Và rồi, một lần nữa anh ta lại tự thuyết phục mình rằng anh chưa đến đúng nơi, tìm chưa đúng chỗ. Trong thâm tâm, Mark vẫn tin rằng sẽ có một nơi thỏa mãn được anh. Cứ thế, càng nhiều thời gian và tiền bạc bị tiêu tốn vào những thú vui… chẳng mấy vui.

Tất nhiên, cũng có những chuyến đi khiến Mark ghi nhớ, nhưng đại đa số chúng là những điểm đến mà Mark chẳng ưa thích, anh bỏ tiền ra xem những thứ mà thật sự thì anh chẳng quan tâm.

Và đây là lúc để nói về FOMO…

Mark cho rằng khi chúng ta tiếp cận một thứ mới, chúng ta thường lo rằng mình sẽ không được trải nghiệm hết những gì nó có. Ví dụ như tới một thành phố, bạn sẽ phải ghé thăm tất cả những cảnh đẹp nó có để đi cho đã. Một khi chưa đi hết, FOMO sẽ vẫn quấy rầy. Cả chuyến đi được hiệu ứng trên kích thích và nó luôn tạo ra nỗi sợ cho Mark rằng anh sẽ không thể thấy được thứ gì đẹp đẽ.

FOMO là khát vọng trải nghiệm một thứ gì đó, nó được sinh ra không phải do những gì bạn muốn có mà bởi nỗi sợ bạn sẽ mất những thứ mình chưa hề có.

Vòng xoay chẳng có hồi kết

Mark cho rằng FOMO là một hiệu ứng tra tấn tâm lý do chính chúng ta tạo nên. Nó kích thích trí tưởng tượng xấu và tiêm nhiễm suy nghĩ người khác luôn vui hơn mình mọi lúc, mọi nơi. Nó khiến chúng ta tin rằng thứ tuyệt vời hơn vẫn đang ở phía trước và bạn phải làm mọi thứ để có được nó thay vì ngồi im chờ đợi.

Niềm tin này khiến chúng ta kết bạn với nhiều người, mong rằng người tiếp theo sẽ là tri kỉ. Ta chơi với 9 người cùng lúc nhưng chẳng thân với ai trong số họ, ta luôn tin rằng sẽ có một thứ tuyệt vời xuất hiện nhưng đôi khi vì quá mơ mộng mà đã bỏ lỡ mất cơ hội nghìn năm. Ta tới những hàng quán mới và rồi có niềm tin rằng hàng tiếp theo sẽ là thứ tuyệt nhất trần đời, để rồi bữa ăn chẳng còn hấp dẫn nữa vì chúng ta luôn tìm kiếm thứ tuyệt vời hơn.

FOMO dần trở thành một vấn đề lớn với những người thuộc thế hệ mới. Lý do vì họ có quá nhiều lựa chọn, quá nhiều cơ hội để trải nghiệm những thứ mới. Chúng ta thường gặp trường hợp có những trải nghiệm tuyệt vời nhưng cũng chẳng mấy vui hơn, tất cả đều được sinh ra từ FOMO.

Giả sử bạn có 2 chiếc bánh kẹp trưng ra trước mặt, chọn 1 chiếc để ăn sáng. Chắc chắn bạn sẽ chọn chiếc trông hấp dẫn và có vẻ ngon hơn.

Thế nhưng, nếu như bày ra trước mặt bạn là 50 địa điểm khác nhau với rất nhiều bữa ăn sáng khác nhau, ngon miệng, chắc chắn bạn sẽ tự tra tấn chính mình để chọn ra một điểm đến trong tương lai. Và rồi khi đến một điểm, bạn sẽ lại dằn vặt mình và cho rằng 49 điểm còn lại sẽ có thứ tuyệt vời hơn… cứ thế, cứ thế.

Vấn đề lớn của FOMO là nó cản trở quá trình trải nghiệm của chính bạn, nó khiến bạn rơi vào một vòng xoay không điểm dừng, nơi mà chúng ta luôn tìm thứ tuyệt vời hơn chứ không trân trọng những gì đang có. Những người gặp phải FOMO muốn mình có càng nhiều trải nghiệm càng tốt nhưng tất cả những trải nghiệm đó chẳng có gì đáng nhớ.

“Người gặp phải FOMO sẽ đưa số lượng lên trên chất lượng”.

Ví dụ thực tế hơn

Những thứ bên trên có vẻ xa vời, hãy nhìn những thứ thực tế hơn. Giả sử bạn là nam, và rồi một ngày đẹp trời bạn gặp một cô hot girl độc thân với thân hình bốc lửa cùng khuôn mặt không thể khôn nhìn. Thứ hiện ra trong đầu sẽ là gì, tất nhiên là một viễn cảnh tương lai bạn ở bên cô nàng cùng những trải nghiệm tuyệt vời mà bạn có thể có.

Đó chình là FOMO, chúng ta muốn có được trải nghiệm ngay nhưng không đánh giá được hết những thứ đằng sau. Giả sử bạn có hẹn hò được với cô gái kia, liệu tính cách của cô ấy có hợp với bạn không, cô ấy có quan tâm tới bạn hay không? Quan trọng hơn cả là bạn có thật sự hạnh phúc hay không?

FOMO lừa chúng ta, một thứ gì đó trông có vẻ tuyệt vời thì chắc chắn sẽ mang lại trải nghiệm hoàn hảo. Mặc dù vậy, điều này không đúng.

Thoát khỏi FOMO

Cách thức đơn giản nhất để loại bỏ FOMO đó chính là dừng ngay mơ mộng về những thứ viển vông mà bạn không cần trong cuộc sống. Trước mỗi khi đưa ra quyết định về một thứ gì đó, hãy hỏi mình thật kĩ: “Liệu bạn có cần nó hay không?”.

Trên đời chẳng có gì là hoàn hảo, chẳng có một điểm đến nào mà mọi thứ đều 10/10, chẳng có người bạn đời nào không có gì chê trách, và cũng chẳng có những thứ tuyệt vời khi mua xong sẽ chẳng muốn mua gì khác.

Thứ phù hợp với người khác chưa chắc đã phù hợp với bạn, tốt hay xấu chỉ mang tính tương đối mà thôi. Một chuyến đi tuyệt vời của anh bạn trên Facebook tới những nơi đắt tiền chưa chắc đã phù hợp với bản thân bạn, nó có thể rất kinh khủng. Thêm vào đó có rất nhiều yếu tố ngoại cảnh có thể biến trải nghiệm của bạn thành ác mộng. (Giả sử như bị đuổi việc trước khi đi du lịch chẳng hạn).