Author Archives: Hung Dao

Hành trình đến doanh thu 30 triệu USD/năm của startup Showpo

Con đường đến thành công của Jane Lu – nhà sáng lập của cửa hàng thời trang online Showpo – thực sự quanh co khi cô phải đi nửa vòng trái đất và trải qua những gian truân thật ý nghĩa trước khi tới được đỉnh vinh quang như ngày hôm nay.

Năm 2009, Lu làm việc tại văn phòng ở Sydney của một hãng tư vấn quốc tế và rất hài lòng với công việc đầy bận rộn mang tính xã hội này của mình. Nhưng điều đó đã thay đổi sau khi cô thực hiện chuyến du học nhiều tháng trời đầy thôi thúc để biết nhiều hơn nữa về thế giới này.

Khởi nghiệp từ gara

Trước khi tốt nghiệp trường Đại học New South Wales chuyên ngành kinh doanh năm 2009, Lu đã từng làm việc như một nhà phân tích tại Ernst & Young trong 2 năm và hưởng thụ cuộc sống theo phong cách của giới trẻ hiện hành khi đó. Nhưng cuối cùng cô đã quyết định “tung cánh” khi tham gia du học một chương trình 9 tháng về tài chính tại Đại học Lund ở Thụy Điển – nơi cô “đã có khoảng thời gian đẹp nhất cuộc đời” – và quay trở lại Australia để bắt đầu thắp sáng tương lai bằng niềm đam mê.

Trở về sau chuyến đi, sau vài tháng tìm việc thất bại, Lu quyết định không bị đóng khung trong công việc văn phòng trước đây mà cô lên ý định cố gắng trở thành doanh nhân. Cô đã bắt đầu kinh doanh, với sự nung nấu ý tưởng chỉ trong vài tuần. Cô nhớ lại: “Tôi đã không có gì để dựa vào, không công việc, không vận may tìm việc mới vào đúng giữa thời điểm khủng hoảng tài chính toàn cầu và tôi có quá nhiều tự hào để kể với bố mẹ rằng tôi đã đánh mất mọi thứ mình từng làm việc hết sức chăm chỉ để có được, rồi giờ đây chấp nhận làm lại từ đầu”.

Tháng 9/2010, Lu chính thức ra mắt cửa hàng thời trang trực tuyến Showpo từ chiếc gara của bố mẹ cô và tự học lập trình bằng HTML để có thể xây dựng trang web riêng của mình. Đối với quần áo tồn kho, cô đã làm việc với một đại lý phân phối địa phương mà không đòi hỏi phải thanh toán cho tới khi quần áo được bán hết.

Lựa chọn duy nhất của Lu khi đó chỉ đơn giản là bắt đầu lại, và cô đã khởi nghiệp. Từ xuất phát điểm thấp năm 2010, cô đã cho ra mắt Showpo – một cửa hàng đồ thời trang trực tuyến dành cho phái đẹp – và dần dần gây dựng nó trở thành một điểm thu hút quốc tế với các khách hàng ở hơn 50 quốc gia trên khắp thế giới. Lu, hiện giờ 31 tuổi, cùng đội ngũ nhân viên hơn 40 người hiện nay đã thu được doanh thu hằng năm 30 triệu USD.

Phát triển nhờ tận dụng lợi thế mạng xã hội

Từ những khởi đầu gian truân đó, một đế chế trực tuyến đã trỗi dậy và lớn mạnh, nhờ phần lớn vào sự hiểu biết về mạng internet của Lu. Cô thú nhận, ngay từ những ngày đầu làm việc, “tôi đã nghiện Facebook” và dành thời gian “vào trộm” Facebook khi theo dõi trang web của mình trong cả ngày làm việc.

Trên thực tế, những khoảng thời gian dường như mất thời gian đó đã đưa cô đi đầu về tiếp thị trên mạng xã hội tại thời điểm đó, khi mà các công ty vẫn còn hơi sốc về điều đó. “Quả thật rất vui về quãng thời gian tôi ‘đã lãng phí’ trên Facebook vì nó cho phép tôi hiểu được nền tảng nằm sâu bên trong đó. Trang mạng xã hội này đã giúp tôi xây dựng được nhãn hiệu của mình rất nhanh chóng và với một mức chi phí rất thấp”, Lu hồ hởi chia sẻ.

Sự hiện diện trực tuyến của Showpo và việc sử dụng Facebook mang tính chiến lược của Lu đã cho phép cô phát triển được cơ sở khách hàng nằm ngoài biên giới Australia. Ảnh hưởng trên mạng xã hội của Showpo đã lớn mạnh nhiều hơn nữa kể từ đó. Ngày nay, trang Facebook của Showpo đã có hơn một triệu người ủng hộ, và cả một triệu người nữa theo dõi trên tài khoản Instagram.

Ngay khi Showpo trở nên lớn mạnh, Lu đã nhận được rất nhiều sự công nhận về công việc của cô. Đáng kể tới trong những sự ghi nhận đó là: tên cô nằm trong danh sách Forbes 30 Under 30 Aisa năm 2016, cô đạt danh hiệu Cosmopolitan’s Entrepreneur of the Year năm 2015 và thậm chí, cô được công ty cũ – Ernst & Young – tán dương là người lọt vào vòng cuối dành cho EY Entrepreneur of the Year năm 2014.

Giờ đây, Lu đã trở thành một doanh nhân thành công và cô cảm thấy mình có trách nhiệm đóng góp cho xã hội. Vì vậy, Lu vô cùng tích cực khi tham gia các diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, những buổi nói chuyện mang tính chia sẻ trải nghiệm và thiết lập mối quan hệ đối tác với các tổ chức phi lợi nhuận địa phương, cũng như hỗ trợ nhiều hơn nữa cho hệ sinh thái khởi nghiệp của Australia.

Hướng về phía trước, Lu có ý định mở rộng việc tiếp cận trực tuyến của Showpo, một phần bằng việc mở rộng nội dung trực tuyến với các video blogging. Cô cũng đang thực hiện những động thái trong thế giới thực với kế hoạch chuyển các phần việc điều hành của Showpo sang một không gian văn phòng mới lớn hơn, song song đó là phát triển đội ngũ hơn nữa. Mục tiêu dài hạn của Lu thời gian tới là mở rộng các sản phẩm của Showpo và đạt doanh thu 100 triệu USD vào năm 2020 mà không phải tăng thêm vốn.

Chủ tịch Grab Việt Nam: ‘Chúng tôi đã xong trận đánh giành thị phần’

Chia sẻ tại buổi làm việc với câu lạc bộ LBC với chủ đề công nghệ 4.0, ông Nguyễn Tuấn Anh, Chủ tịch của Grab Việt Nam khẳng định thời điểm này Grab không lo lắng nhiều về đối thủ.

Theo ông Tuấn Anh, Grab ra đời với mong muốn cải thiện vấn đề vận tải và việc ứng dụng công nghệ chỉ là phương tiện để giải quyết mục tiêu kinh doanh này.

* Công nghệ 4.0 đã tác động thế nào đến sự phát triển của Grab ngày hôm nay thưa anh?

Ngay tại thời điểm Grab ra đời, chúng tôi thấy thị trường vận tải đang không tốt. Tại sao không tốt? Vì chưa giải quyết được vấn đề chất lượng, vấn đề giá cả, vấn đề hiệu suất.

Làm sao để mình giải quyết được vấn đề đó? Ngay thời điểm đó, chúng tôi có công nghệ. Công nghệ tới đúng thời điểm thì mình dùng nó để giải quyết vấn đề chứ thực ra là mình vào thị trường vận tải để làm cho thị trường đó tốt hơn.

Công nghệ chỉ là yếu tố đến đúng thời điểm mà thôi. Giả sử chúng tôi có công nghệ nhưng thời điểm đó Việt Nam chưa có smart phone, chưa có 3G thì Grab cũng không giải quyết được vấn đề của thị trường vận tải.

Chủ tịch Grab Việt Nam tại buổi chia sẻ.

GrabBike đụng độ xe ôm truyền thống là phần tất yếu

* GrabBike ra đời đã mang lại nhiều tiện ích cho người tiêu dùng. Nhưng lại trở thành đối thủ của xe ôm truyền thống. Anh suy nghĩ vấn đề này thế nào?

GrabBike ra đời đầu tiên ở Việt Nam do chúng tôi thấy thị trường có nhiều xe máy. Cũng giống như GrabCar mâu thuẫn với taxi truyền thống, GrabBike cũng có đụng độ với xe ôm truyền thống. Nó là một phần tất yếu.

Trên đường chúng tôi đi, chúng tôi cũng cố gắng giảm thiểu những thiệt hại do chúng tôi vô tình gây ra, miễn sao đến cuối cùng chúng tôi cảm thấy giá trị chúng tôi tạo ra không chỉ là số dương mà là một số dương lớn thì mới yên tâm đi trên con đường của mình.

Chúng tôi cũng nhìn thấy, báo chí cũng đăng trường hợp những bác xe ôm truyền thống nghèo khổ mưu sinh. Khi nhìn lại, chúng tôi thấy số đó là số ít.

Có những người báo đăng lên, chúng tôi cũng ráng đi kiếm họ. Có người tụi tôi phải trực ở địa điểm xe ôm thường đón khách mấy ngày để tìm họ nhưng không tìm được do không có số điện thoại.

Có những người mắt kém hay già yếu, chúng tôi không nhận vào được nhưng chúng tôi có nhờ họ đi giao hàng, tìm những cách khác, tạo cơ hội để giúp họ.

Nhìn chung, cuối cùng chúng tôi đã tạo được việc làm cho mấy trăm nghìn người. Chúng tôi thấy đó là điều tốt. Tuy nhiên, những việc mình làm đang tạo ra những ảnh hưởng rất lớn, và chúng tôi phải đối mặt với nó.

“Những việc mình làm đang tạo ra những ảnh hưởng rất lớn, và chúng tôi phải đối mặt với nó “, ông Nguyễn Tuấn Anh nói. Ảnh minh họa: Minh Trí.

Có những đêm nằm suy nghĩ, tôi không biết việc mình làm như vậy đã đúng hay chưa. Và dần dần thì có câu trả lời. Tại thời điểm bắt đầu, mình không biết được câu trả lời chính xác là gì. Chỉ có cảm giác là phải đi tới. Nhưng mình hiểu là mình đang làm công việc có lợi cho người tiêu dùng và đúng xu thế.

Nếu doanh nghiệp nào đang hoạt động mà không phải đối mặt với những câu hỏi đó thì nên tìm cách để lớn hơn. Và khi mình lớn đến một lúc nào đó, mình sẽ phải đối mặt với những câu hỏi như vậy. Tôi nghĩ đó là hướng đi đúng vì tạo được nhiều giá trị cho xã hội.

* Với những khách hàng đi lại nhiều và tần suất lặp đi lặp nhiều thì vấn đề về bảo mật thông tin của khách ra sao?

Việc bảo mật liên quan đến uy tín của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không uy tín, khách hàng không sử dụng dịch vụ nữa thì nó liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp. Nhất là hiện nay Grab có nhiều nhà đầu tư.

Người tiêu dùng đương nhiên sẽ được bảo vệ bởi luật pháp. Chúng tôi cũng chọn khung luật pháp cứng nhất trong khu vực theo chuẩn của Singapore và bám theo chuẩn đó.

Không lo nhiều về đối thủ

* Mới đây, Viettel tuyên bố hợp tác với Gonow gia nhập thị trường gọi xe trực tuyến. Thị trường có thêm đối thủ, Grab có lo lắng gì hay không?

Nói thật, thời điểm này, Grab không lo lắng nhiều về đối thủ. Ngay cả đối thủ lớn nhất là Uber thì chúng tôi cũng đã giành được thị phần lớn hơn, coi như trận đó đã xong rồi.

“Ngay cả đối thủ lớn nhất là Uber thì chúng tôi cũng đã giành được thị phần lớn hơn, coi như trận đó đã xong rồi.”

Thị trường này đang được bơm tiền rất mạnh từ các nhà đầu tư và ngốn rất nhiều tiền chứ không chỉ đơn giản là chuyện công nghệ. Đây là một mô hình kinh doanh và công nghệ chỉ là một phần giúp mình đạt được mục tiêu kinh doanh. Xung quanh đó còn rất nhiều vấn đề. Như làm marketing thế nào để kiếm xe, kiếm được tài xế, làm sao đảm bảo được công việc cho người ta.

Tạo ra một app là chuyện dễ. Cái khó là mình biết phải làm như thế nào để khi mới bắt đầu, chưa có xe, chưa có khách, mình phải làm gì. Đây là vấn đề về chiến lược. Sau đó phải có tiền để mình dùng phát triển thị trường lên được trong môi trường cạnh tranh rất lớn như lúc này.

Đứng từ góc độ người tiêu dùng, tôi nghĩ việc có thêm các phần mềm gọi xe khác là đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, nhà đầu tư đó cần phải hiểu được thị trường thực sự và khi họ bước vào, họ phải nói được họ khác với những người đi trước những điểm gì.

Còn nếu làm giống y chang chúng tôi thì lý do gì để có thể thắng được chúng tôi hay Uber. Vì thế, rất khó có thể đánh bật Grab hay Uber ngay tại thời điểm này.

* Với một khối lượng tài xế lớn như vậy thì việc hợp tác giữa Grab và tài xế ra sao? Họ có hợp đồng lao động để đảm bảo các quyền lợi hay không?

Với mô hình làm việc này, có cả mặt tốt và mặt xấu. Tài xế của Grab sẽ được tự do về thời gian, tự chủ trong công việc của mình, họ không bị bắt buộc về giờ giấc, chỉ tiêu. Bù lại, họ sẽ không được bảo vệ hoàn toàn như là người lao động bình thường như các chế độ bảo hiểm…

Đây cũng là một khó khăn của chúng tôi vì hiện tại chúng tôi có mấy chục nghìn GrabBike, không thể nào mà ký hợp đồng với tất cả họ. Nếu giờ có luật yêu cầu Grab hay Uber phải ký hợp đồng lao động với tất cả tài xế thì các công ty này sẽ đóng cửa, bởi ngay lập tức chi phí sẽ tăng lên rất cao và các công ty như vậy sẽ chịu không nổi.

Điều này cũng không đúng với mô hình hoạt động của Grab hay Uber. Nếu ký hợp đồng với tất cả tài xế thì họ sẽ phải đi làm trong thời gian quy định, và điều này sẽ đi vào lối cũ.

Đây là vấn đề lớn, bản thân tôi cũng không thể trả lời với tư cách một công ty. Tôi chỉ biết rằng, các công ty như Grab, Uber không thể tồn tại được nếu như mô hình hợp tác đó không được cho phép.

* Ngay từ khi mới vào thị trường và cho đến tận bây giờ, cả Grab và Uber đều gặp phải nhiều sự phản ứng từ thị trường. Anh có suy nghĩ gì về vấn đề này?

Chúng tôi hiểu rằng, khi mình vào một thị trường mới và làm thay đổi thị trường một cách mạnh mẽ thì chắc chắn mình sẽ vấp phải nhiều vấn đề khác nhau.

Khi mình đã mong đợi tạo ra những thay đổi lớn thì phải chấp nhận những sự cản trở nhất định, chúng tôi hiểu và chấp nhận điều đó.

Kinh nghiệm xây startup công nghệ của… cựu diễn viên

Từng hoạt động trong lĩnh vực diễn xuất, sân khấu, Katelyn Gleason được đánh giá là không có vẻ gì giống một nhà sáng lập startup công nghệ tiềm năng.

Tuy nhiên, hiện tại, Gleason đã là nhà sáng lập, CEO của Eligible – công ty tận dụng các APIs (tạm dịch: giao diện lập trình ứng dụng) để liên kết các hệ thống chăm sóc sức khỏe với việc thanh toán bảo hiểm cho bệnh nhân.

Eligible đã giúp hàng chục triệu bệnh nhân nắm được thông tin chi tiết về bảo hiểm cá nhân của mình và biết được cụ thể chi phí mà họ sẽ phải trả cho các dịch vụ y tế, phòng khám… là bao nhiêu.

Và dĩ nhiên, hành trình dẫn đến thành công này của Eligible không hề bằng phẳng. Katelyn Gleason đã phạm phải nhiều sai lầm, nếm trải nhiều thất bại và phải học hỏi từ đó để tiếp tục tiến lên phía trước. Dưới đây là 4 sai lầm và cũng là 4 bài học quan trọng nhất mà Katelyn Gleason đã tiếp thu được trên hành trình đầy gian nan đó:

1. Nghĩ rằng mình cần phải có một kế hoạch xuất chúng để giới thiệu sản phẩm/dịch vụ

Ngay trước khi khởi động Eligible, Gleason đã chuyển đến một căn hộ nhỏ để ở và nghiên cứu trong vòng 9 tháng về mọi thứ cần thiết trên kênh trực tuyến hoặc trong thư viện để tìm ra cách tốt nhất nhằm xây dựng nên một POC (Proof of concept – tài liệu để làm chứng cứ cho một sản phẩm hay dịch vụ tiềm năng có khả năng thành công).

Nghĩa là, Gleason phải tìm ra những giải pháp để tự động hóa các thông tin điều kiện bảo hiểm, giúp giảm thiểu chi phí, tiết kiệm thời gian, tăng tính chính xác so với các giải pháp đã có. Và hóa ra, việc tìm tòi nghiên cứu, các ý tưởng và kỹ năng tự học của Gleason đã đủ để hoàn thành quá trình này mà không cần phải tổ chức đến những buổi họp hội đồng hoành tráng.

Sau giai đoạn nghiên cứu đó, Katelyn Gleason chuyển sang giai đoạn hiện thực hóa ý tưởng. “Cuối cùng, thứ tôi đưa ra là một ứng dụng “siêu đơn giản” trên iPhone, giúp một nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể kiểm tra điều kiện bảo hiểm của bệnh nhân, và thực hiện mọi thao tác trong thời gian thực.

Là bệnh nhân, bạn cũng có thể truy cập vào thông tin bảo hiểm của mình, sau đó, ứng dụng sẽ đưa ra phản hồi về các khoản tiền bạn phải bỏ ra để chia sẻ với hãng bảo hiểm về chi phí của dịch vụ y tế, đối với từng nhà cung cấp bảo hiểm cụ thể, chẳng hạn như mức co-pay (khoản tiền cố định phải trả cho dịch vụ y tế hoặc thuốc men mỗi lần sử dụng dịch vụ), deductible (mức tiền phải tự đáp ứng trước khi hãng bảo hiểm can thiệp, tính theo từng năm), coinsurance (chi phí “đồng bảo hiểm”, tính theo tỷ lệ phần trăm, thường là 80/20, 70/30 hoặc 60/40)…”, Gleason nói.

Trong cuộc phỏng vấn với nhà đầu tư đầu tiên là Harj Taggar, khi Taggar tình cờ nói rằng ông vừa bất ngờ nhận được một hóa đơn khấu trừ từ bệnh viện mà ông sử dụng dịch vụ cách đó vài tuần, ngay lập tức Gleason đã “trình diễn” thành công ứng dụng của mình. Bằng cách kiểm tra điều kiện bảo hiểm của Taggar, Gleason đã cho ông biết chính xác những nghĩa vụ của ông đối với những giao dịch y tế tương tự trong tương lai.

“Chỉ với một chiếc điện thoại trong tay, tôi đã chứng minh được mình đã xây dựng nên một thứ có giá trị và giải quyết hiệu quả những vấn đề tồn tại trong thế giới thực”, Gleason tự hào.

Đây là một bằng chứng thực tế cho thấy, không phải lúc nào startup cũng cần phải có một kế hoạch quá phức tạp. Đôi khi chỉ cần một thư viện, một laptop và sự lao động chăm chỉ là đủ.

2. Nghĩ rằng cần phải có một nhà đồng sáng lập chuyên về công nghệ

Katelyn Gleason là nhà sáng lập duy nhất của Eligible. Tuy nhiên, đó không phải là kế hoạch ban đầu.

Sau khi gặp gỡ nhà đầu tư, Gleason đã cố gắng tuyển dụng thêm 2 kỹ sư cộng sự, vì nghĩ rằng mình không thể một mình làm được mọi thứ vì không có chuyên môn kỹ thuật.

Thực tế là, kế hoạch đó đã thất bại. Cả 2 kỹ sư được tuyển dụng để trở thành những nhà đồng sáng lập đều không thể gắn bó lâu dài. Một tháng trước Demo Day (sự kiện giới thiệu sản phẩm), Gleason cảm thấy suy sụp vì sẽ phải một mình làm tất cả mọi thứ, thậm chí còn nghĩ sẽ không tham gia sự kiện. Nhưng sau khi nhận được lời khuyên và sự cổ vũ của một người bạn là nhà đầu tư mạo hiểm Paul Graham, nhà sáng lập Eligible quyết tâm tiếp tục hành trình.

Gleason thuê ngoài những dịch vụ cần thiết và một thân một mình đến Demo Day – sự kiện giúp startup Eligible huy động được số vốn 1,6 triệu USD. Đó là thời điểm cách đây 5 năm.

3. Đánh giá thấp những kỹ năng phi kỹ thuật

Katelyn Gleason không phải là một chuyên gia về code, nhưng cuối cùng, chính những kỹ năng phi kỹ thuật đã giúp Gleason vượt qua nhiều thử thách. “Tôi tin rằng sự kiên cường và quyết tâm là các đặc tính quan trọng nhất ở những người thành công, bất kể họ làm trong lĩnh vực gì. Tôi đã dồn hết tâm sức để biến tầm nhìn và công ty của mình thành hiện thực. Hành trình này nhiều lúc rất cô đơn và đáng sợ, nhưng niềm tin vào bản thân đã cho tôi thấy được thành quả ngày hôm nay”, CEO Eligible khẳng định.

Bên cạnh đó, Gleason còn rất xem trọng khả năng đồng cảm. “Tôi xây dựng Eligible để giải quyết vấn đề cho khách hàng và các đối tác. Tôi tìm hiểu những điều họ cần bằng cách lắng nghe họ, học hỏi về họ và về doanh nghiệp của họ. Tôi luôn được truyền cảm hứng để cố gắng giúp đỡ mọi người. Tôi được bảo rằng mình giỏi bán hàng, nhưng tôi tin rằng những gì tôi làm là chứng minh cho mọi người thấy rằng tôi quan tâm đến việc giúp đỡ họ. Và với Eligible, tôi có thể và tôi sẽ giúp họ, không chỉ là khách hàng, mà còn các nhà cung cấp, nhà đầu tư, nhân viên của tôi nữa”, Gleason chia sẻ.

4. Đánh giá thấp tầm quan trọng của việc giao tiếp bằng ngôn ngữ kỹ thuật với các kỹ sư

Truyền thông, giao tiếp là yếu tố quan trọng giúp một đội ngũ, một công ty phát triển. Nghĩa là dù không có các kỹ năng trong lĩnh vực công nghệ, nhà sáng lập vẫn nên hiểu và sử dụng hiệu quả các thuật ngữ giúp cho các kỹ sư có thể hiểu được.

Gleason thừa nhận rằng phải mất một thời gian dài để nhận ra điều đó: “Tôi nghĩ rằng tôi chỉ cần nói những điều mình muốn đạt được, bằng ngôn ngữ phi chuyên môn, và đội ngũ của tôi sẽ nắm bắt hoàn toàn những ý tưởng đó và biến nó thành hiện thực”.

Dĩ nhiên sau đó, cách làm này đã được chứng minh là không hiệu quả. Cả 2 bên gần như có những mục tiêu trái ngược nhau, trong khi trên thực tế, họ thực sự muốn cùng một kết quả.

Cuối cùng, Gleason nhận ra: “một tầm nhìn cần phải được truyền đạt chính xác, trước khi nó biến thành một nhiệm vụ, và sự giao tiếp hiệu quả không được đo bằng những điều chúng ta nói, mà bởi mức độ chính xác khi thông điệp được tiếp nhận”.

“Khi tôi nhận ra mình đang phải quản lý vi mô để đảm bảo rằng tầm nhìn đã đặt ra đang được mọi người bám sát, tôi biết rằng cả vấn đề và giải pháp đều nằm ở mình”, Gleason thừa nhận.

Khi đó, Gleason đã chủ động sửa chữa sai lầm bằng cách đầu tư thời gian để tìm hiểu và học hỏi vốn từ vựng chuyên môn của các nhân viên kỹ thuật. Cách làm này đã giúp nữ CEO trẻ và đội ngũ kỹ sư Eligible tin tưởng và gắn kết với nhau hơn, vì họ biết rằng họ đang làm việc cho cùng một mục tiêu và có những ưu tiên giống nhau.

“Chúng tôi đã gặt hái được những thành quả vượt xa mọi tưởng tượng ban đầu. Từng là một vấn đề rắc rối, bây giờ, nó đã trở thành một phần thưởng”, Katelyn Gleason nói.

Samsung – thương hiệu giá trị nhất châu Á

Samsung đã trở thành thương hiệu có giá trị nhất châu Á, theo một bảng xếp hạng toàn cầu do Hãng tư vấn Mỹ Interbrand thực hiện, tờ Nikkei cho hay.

Samsung đã vượt qua Toyota để trở thành thương hiệu có giá trị nhất châu Á lần đầu tiên, theo một bảng xếp hạng toàn cầu do Hãng tư vấn Mỹ Interbrand thực hiện.

Bản danh sách thương hiệu toàn cầu giá trị nhất năm 2017 bao gồm 11 công ty đến từ châu Á – con số tương tự như năm ngoái. Nhưng việc các thương hiệu Hàn Quốc vượt lên so với các đối thủ Nhật Bản cho thấy sự thay đổi liên tục trong thị trường, nơi mà các công ty năng động hơn ở châu Á đang lấn lướt một số công ty Nhật Bản trước đây từng thống trị thị trường.

Cuộc khảo sát cũng nhấn mạnh sức mạnh thương hiệu hạn chế của các công ty Trung Quốc, bất chấp quy mô và vốn hóa thị trường lớn của họ. Mức độ phổ biến của các công ty này vẫn còn hạn chế trong thị trường đại lục.

Samsung đã tiến lên vị trí thứ 6 bất chấp hàng loạt bê bối gần đây. Giám đốc điều hành Interbrand Nhật Bản – Masahito Namiki – cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng: “Trong 10 năm qua, Samsung đã thực hiện các chính sách giúp củng cố thương hiệu của Hãng. Chính sách vẫn không thay đổi, bất chấp những xáo trộn của bộ máy lãnh đạo, giúp hạn chế ảnh hưởng của những bê bối đó lên hình ảnh thương hiệu của công ty”.

Toyota xếp thứ 7, đây là một bước thụt lùi khi năm ngoái nhà sản xuất xe hơi này trở thành công ty châu Á đầu tiên giành vị trí thứ 5. Doanh số của Toyota tại thị trường trọng điểm là Mỹ đã suy giảm. Đồng thời, công ty cũng phải đối mặt với chi phí gia tăng cho việc phát triển xe ô tô tự lái – lĩnh vực mà các công ty công nghệ của Mỹ như Google và Tesla dẫn đầu.

Ông Namiki cho biết: “Câu hỏi đặt ra đối với ngành công nghiệp ô tô là liệu nó có thể duy trì tăng trưởng khi đối mặt với áp lực cạnh tranh mới từ các ngành công nghiệp khác hay không”.

Trích danh sách 100 công ty giá trị nhất thế giới theo đánh giá của Interbrand. Nguồn: Nikkei

Theo Interbrand, sức mạnh thương hiệu là điều cốt yếu để thành công trong kinh doanh. Nó giúp công ty thu hút và giữ chân nhân tài, đồng thời, cho phép các công ty tăng giá bán. Thêm vào đó, số tiền thu được có thể được đầu tư vào các sản phẩm mới để tăng cường thương hiệu.

Google đứng thứ hai sau Apple, điều đã được duy trì trong 4 năm qua. Microsoft, Coca-Cola và Amazon cũng đã lọt vào top 5.

Trong số 11 thương hiệu châu Á, Nhật bản có 6 công ty, hầu hết đều tụt hạng: Canon tụt xuống vị trí 52 từ vị trí 42, Sony xuống vị trí 61 từ vị trí 58, và Panasonic xuống vị trí 75 từ vị trí 68.

Trong khi đó, Honda đã leo lên vị trí 20 từ vị trí 21 trong năm ngoái. Hãng đã hưởng lợi từ vụ phá sản của Hãng sản xuất túi khí Takata – một đối tác kinh doanh thân thiết với mình – dự kiến ​​sẽ giúp giảm bớt gánh nặng của Hãng trong việc thu hồi hàng triệu túi khí Takata bị lỗi.

Nissan cũng đã leo lên vị trí thứ 39 từ vị trí 43, nhờ tung chiếc xe điện Leaf phiên bản mới và áp dụng công nghệ tự đỗ xe và tự phanh. Những đổi mới này đã củng cố vị thế của một công ty trong lĩnh vực xe điện và xe tự lái.

Danh sách của Interbrand chỉ bao gồm các công ty có sự hiện diện trên toàn cầu, và tập trung vào các công ty niêm yết có tài chính minh bạch. Do những tiêu chí này, nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn nhất của Trung Quốc đã bị bỏ qua.

Trung Quốc chỉ có 2 thương hiệu nằm trong top 100 là nhà sản xuất điện thoại thông minh Huawei (đứng thứ 70) và Lenovo (đứng thứ 100).

Điện thoại thông minh đang hủy hoại thế hệ trẻ thế giới ra sao?

Từ khoảng năm 2010, thanh thiếu niên bắt đầu sử dụng thời gian của mình khác đi rất nhiều so với những thế hệ trước họ.

Thế hệ mới nhất sinh sau năm 1995 thường được gọi là thế hệ Z. Những thanh thiếu niên và thanh niên này có một đặc điểm chung là thời thơ ấu hoặc tuổi vị thành niên của họ trùng hợp với sự phát triển của điện thoại thông minh.

Theo một cuộc khảo sát năm 2015, 2/3 thanh thiếu niên ở Mỹ sở hữu một chiếc iPhone. Vì thế hệ Z là thế hệ đầu tiên sử dụng điện thoại thông minh trong suốt thời niên thiếu, nên Jean Twenge, một tiến sĩ tâm lý người Mỹ, đã gọi thế hệ Z là thế hệ iGEn trong cuốn sách “iGen: Why Today’s Super-Connected Kids are Growing up Less Rebellious, More Tolerant, Less Happy – and Completely Unprepared for Adulthood” của cô.

Điều gì khiến iGen trở nên khác biệt?

Lớn lên với điện thoại thông minh đã ảnh hưởng đến hầu hết mọi khía cạnh trong cuộc sống của họ. Họ sử dụng quá nhiều thời gian cho Internet, nhắn tin cho bạn bè và các phương tiện truyền thông xã hội. Trong cuốn sách của Twenge, thời gian làm những việc này của thế hệ iGen chiếm tới 6h/ngày, đồng nghĩa với từng đó thời gian không được dùng để dành cho các hoạt động giải trí khác.

Họ cũng ít tham gia vào một trong những hoạt động yêu thích của các thanh thiếu niên thế hệ trước: đi chơi với bạn bè. Cho dù đó là tham dự các buổi tiệc, mua sắm ở các trung tâm mua sắm, xem phim hay lái xe đi dạo, các thanh thiếu niên thế hệ iGen đang tham gia vào các hoạt động xã hội với tỷ lệ thấp hơn đáng kể so với thế hệ millenial ngay trước họ.

iGen cho thấy một sự khác biệt rõ rệt khác so với millenials. Đó là tình trạng trầm cảm, lo lắng và cô đơn đã tăng lên nhanh chóng kể từ năm 2012, trong khi tỷ lệ hạnh phúc đang suy giảm.

Tỷ lệ tự tử ở trẻ vị thành niên đã tăng hơn 50%, và số lượng thanh thiếu niên trầm cảm ở mức lâm sàng cũng đã tăng lên.

Mối liên hệ không thể bỏ qua

Liệu những xu hướng này – những thay đổi trong cách thanh thiếu niên sử dụng thời gian rảnh và sức khỏe tinh thần của họ đang xấu đi – có liên hệ với nhau hay không? Kết quả nghiên cứu của Twenge cho thấy những thanh thiếu niên dành nhiều thời gian online ít hạnh phúc và trầm cảm hơn, còn những đứa trẻ dành nhiều thời gian với bạn bè thì lại hạnh phúc hơn và ít chán nản.

Tất nhiên sự tương quan không chứng minh được mối quan hệ nhân quả: Có thể những người không hạnh phúc dành nhiều thời gian cho các thiết bị điện tử hơn.

Tuy nhiên, khi nghiên cứu để viết sách, Twenge đã tìm thấy 3 nghiên cứu gần đây đều không loại bỏ khả năng nhân quả đó – ít nhất là đối với phương tiện truyền thông xã hội. Ở 2 trong số 3 nghiên cứu đó, sử dụng social media đã dẫn đến sức khỏe toàn diện thấp hơn, nhưng sức khỏe toàn diện thấp hơn lại không dẫn đến việc tăng thời gian sử dụng social media.

Trong khi đó, một nghiên cứu năm 2016 đã chọn ngẫu nhiên một số người trưởng thành từ bỏ Facebook trong một tuần và một số khác tiếp tục sử dụng nó. Kết quả là những người từ bỏ Facebook đã kết thúc tuần lễ đó cảm thấy hạnh phúc hơn, ít cô đơn và ít chán nản hơn.

iGen còn mất đi thứ gì khác vì điện thoại thông minh?

Một số bậc cha mẹ có thể lo lắng về việc con cái tuổi teen của họ dành rất nhiều thời gian sử dụng điện thoại vì nó hoàn toàn khác với cách mà họ đã từng trải qua thời niên thiếu. Nhưng dành nhiều thời gian cho các thiết bị điện tử không chỉ khác mà còn tồi tệ hơn trong nhiều khía cạnh.

Ít thời gian vui chơi với bạn bè đồng nghĩa với ít thời gian hơn để phát triển kỹ năng xã hội. Một nghiên cứu năm 2014 cho thấy các học sinh lớp 6 dành ra 5 ngày để cắm trại và không sử dụng các thiết bị điện tử, sau khi kết thúc chuyến đi, có thể đọc cảm xúc trên khuôn mặt người khác tốt hơn. Điều này gợi ý rằng cuộc sống dành ra quá nhiều thời gian onlin có thể khiến các kỹ năng xã hội của iGen bị hao mòn đi.

Thêm vào đó, iGen đọc sách, tạp chí và báo chí ít hơn đáng kể so với các thế hệ trước khi họ còn ở độ tuổi teens. Trong một cuộc khảo sát hằng năm của Monitoring the Future, tỷ lệ phần trăm những học sinh năm cuối phổ thông tự nguyện đọc sách hoặc tạp chí gần như mỗi ngày giảm từ 60% trong năm 1980 xuống còn 16% trong năm 2015.

Điều này có lẽ dẫn đến kết quả là điểm trung bình SAT về đọc hiểu đã giảm 14 điểm kể từ năm 2005. Sinh viên đại học gặp nhiều khó khăn hơn trong việc đọc các đoạn văn dài, và ít khi đọc các cuốn sách giáo khoa bắt buộc.

Các dẫn chứng này không có nghĩa là iGen không có điểm gì tốt. Họ an toàn hơn về thể chất (vì không phải ra ngoài nhiều) và khoan dung hơn các thế hệ trước. Họ cũng có vẻ có đạo đức làm việc tốt hơn và có những kỳ vọng thực tế hơn so với millenials khi ở cùng độ tuổi. Nhưng những chiếc điện thoại thông mình đang đe dọa tương lai của iGen trước khi họ kịp bắt đầu nó.

Sử dụng điện thoại thông minh và phương tiện truyền thông vừa phải (1h/ngày) không gây ảnh hưởng đến sức khỏe tâm lý. Tuy nhiên, thời gian mà hầu hết thanh thiếu niên (và người trưởng thành) sử dụng điện thoại nhiều hơn con số đó rất nhiều.

Có điều ngạc nhiên là các thanh thiếu niên iGen mà Twenge phỏng vấn cho biết họ muốn gặp bạn bè trực tiếp hơn là nói chuyện với họ qua điện thoại. Các bậc cha mẹ thường lo lắng về con cái tuổi teens của họ dành quá nhiều thời gian vui chơi với bạn bè vì cho rằng đó là một sự phân tâm, một ảnh hưởng xấu, hay sự lãng phí thời gian. Nhưng có lẽ đối với iGen, đó chính xác là những gì họ cần để thoát khỏi thế giới ảo mà họ ngày càng bị cuốn sâu vào.