Category Archives: News

Unilever chi 2,7 tỉ đô la thâu tóm hãng mỹ phẩm Hàn Quốc

Hôm 25-9, Tập đoàn Unilever ra thông báo cho biết sẽ chi 2,27 tỉ euro (2,7 tỉ đô Mỹ) để mua lại hãng mỹ phẩm Hàn Quốc Carver Korea từ các cổ đông gồm Ngân hàng Goldman Sachs, Quỹ đầu tư vốn cổ phần tư nhân Bain Capital và ông Lee Sang-rok, người sáng lập kiêm chủ tịch Carver Korea.

Hãng tin Reuters đưa tin quyết định thâu tóm trên là một phần trong nỗ lực của Unilever nhằm mở rộng mảng kinh doanh chăm sóc cá nhân và sắc đẹp.

Thông báo của Unilever cho biết Carver Korea là doanh nghiệp chăm sóc da phát triển nhanh nhất ở Hàn Quốc với các sản phẩm nước dưỡng da, kem giữ ẩm, kem chống nắng…mang thương hiệu nổi tiếng A.H.C.

Năm ngoái, Goldman Sachs và Bain Capital đã mua 60% cổ phần của Carver Korea với giá 500 triệu đô la Mỹ.

Logo của Tập đoàn Unilever. Ảnh: Unilever.

Được thành lập vào năm 1999, Carver đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng trong 5 năm gần đây với mức doanh thu 321 triệu euro và lợi nhuận trước thuế, lãi vay, khấu hao (EBITDA) 137 triệu euro trong năm 2016.

Alan Jope, Chủ tịch mảng kinh doanh chăm sóc cá nhân của Unilever nói: “Chúng tôi vui mừng khi mua lại Carver Korea. Công ty này sẽ củng cố vị thế của chúng tôi ở Bắc Á, thị trường chăm sóc da lớn nhất thế giới”.

Hàn Quốc là thị trường chăm sóc da lớn thứ tư thế giới là là nơi khởi nguồn của nhiều xu hướng sắc đẹp toàn cầu. Năm nay, doanh thu các sản phẩm chăm sóc da ở Hàn Quốc được dự báo đạt 6,3 tỉ đô la Mỹ. Mối quan tâm dành cho các hãng mỹ phẩm ở Hàn Quốc đang nóng dần lên. Hồi tháng 4, Bain Capital đã đầu tư vào 816 triệu đô la Mỹ vào hãng sản xuất các sản phẩm chăm sóc sắc đẹp Hugel của Hàn Quốc nổi tiếng với các sản phẩm botox (xóa nhăn).

Văn hóa làm việc quyết định chuyển đổi số thành công

Chuyển đổi kỹ thuật số là làn sóng đổi mới của doanh nghiệp (DN) đang được thúc đẩy bởi công nghệ đám mây mới như IoT, thực tế tăng cường (AR), trí tuệ nhân tạo (AI) và tài nguyên dữ liệu. Sự dịch chuyển số trong DN mở ra cơ hội thị trường trên toàn cầu ước đến 4.500 tỷ USD.

Theo một nghiên cứu do Harvard Business Review thực hiện, 86% DN xem việc phân hoạch kỹ thuật số là một cơ hội. Để chuyển đổi thành công, họ tìm cách trao quyền cho nhân viên, kết nối tốt hơn với khách hàng, tối ưu hóa vận hành và chuyển đổi sản phẩm. Tuy nhiên, việc chuyển đổi số thành công lại phụ thuộc chủ yếu vào nhân sự và văn hóa làm việc.

Nhiều thách thức

Theo ông Phạm Trần Anh – Phó tổng giám đốc khối khách hàng DN và đối tác chiến lược của Microsoft Việt Nam, những kỳ vọng, kiến thức và kỹ năng cũng như công cụ họ sử dụng để làm việc là chỉ số xác định mức độ chuyển đổi tổ chức cần đạt được. Thách thức hiện nay là làm sao để triển khai những phương pháp mới giúp thúc đẩy văn hóa làm việc hiện đại nhằm gia tăng hiệu quả cho người lao động.

Sự thay đổi của lực lượng lao động khiến các tổ chức cần đẩy mạnh văn hóa làm việc mới để thành công trong chuyển đổi số. Nghiên cứu Asia Workplace 2020 do Microsoft tiến hành, khảo sát gần 4.200 nhân sự tại 14 thị trường châu Á, bao gồm 311 nhân sự Việt Nam, cho thấy 54% lao động Việt Nam muốn tổ chức của họ đầu tư phát triển văn hóa và 60% muốn lãnh đạo dỡ bỏ khác biệt văn hóa số. 60% cho rằng có thể làm nhiều hơn nhằm thu hẹp khoảng cách kỹ năng số giữa các lao động.

Những yếu tố chủ chốt đang ảnh hưởng đến văn hóa làm việc ở Việt Nam như sự gia tăng lực lượng lao động hay dịch chuyển và phơi nhiễm dẫn đến các hiểm họa an ninh mới do các cá nhân đang làm việc trên nhiều thiết bị tại nhiều địa điểm. Chỉ có 10% làm việc toàn thời gian trong văn phòng, 88% đang làm việc trên thiết bị di động cá nhân đã tạo ra những thách thức an ninh mới cho các tổ chức và DN.

Gia tăng nhóm làm việc đa dạng: 36% lao động hợp tác với khoảng 10 nhóm làm việc khác nhau trong cùng thời điểm. Để hoàn thành công việc hiệu quả, cần triển khai các công cụ hợp tác và chia sẻ thông tin theo thời gian thực. Theo ông Anh, khi triển khai các công nghệ mới, các tổ chức cần củng cố kỹ năng cho lực lượng lao động để phát huy tối đa năng lực sáng tạo, làm việc cộng tác và chiến lược dài hạn.

Con người là trọng tâm

Theo khảo sát Asia Pacific cũng do Microsoft thực hiện với 1.200 lãnh đạo công nghệ thông tin thuộc 12 thị trường, bao gồm Việt Nam, 80% cho biết họ nhận thức cần chuyển đổi số để thành công, nhưng thách thức về nhân sự bởi con người vẫn phải là trọng tâm.

Hiện nay, các nhân sự tuyến đầu là những người đại diện kết nối công ty với thế giới, họ thu hút khách hàng, đại diện cho thương hiệu, theo dõi sản phẩm và dịch vụ đã triển khai. Để khai phóng tiềm năng của lao động, phải xử lý và phát huy năng lực, đặc biệt là các lao động tuyến đầu, thông qua những giá trị cốt lõi của văn hóa làm việc mới:

Khai mở sự sáng tạo: Việc cộng tác thúc đẩy đổi mới nhờ chia sẻ ý tưởng và nhân viên có thể làm việc linh hoạt khi kết nối liền mạch trên các thiết bị. Nghiên cứu cho thấy đa số nhân sự cảm thấy họ bị hạn chế khi làm việc, với 63% cho rằng họ phải ở văn phòng vì công cụ phục vụ công việc chỉ có tại công ty.

Tăng cường hợp tác: Nhờ trang bị cho mọi nhân viên bộ công cụ cộng tác, các tổ chức cho phép nhân viên lựa chọn người cùng làm việc và hợp tác. 50% nhấn mạnh việc truy cập công nghệ cộng tác để đáp ứng kịp thời các yêu cầu nội bộ và bên ngoài là rất quan trọng.

Gia tăng bảo mật: 81% phản hồi đang làm việc trên máy tính công ty, nhưng 88% cũng làm việc trên điện thoại cá nhân, điều này phản ánh những rủi ro tiềm ẩn. Có đến 85% số người được hỏi thừa nhận kiểm tra email cá nhân trên thiết bị công ty. Do vậy, giới lãnh đạo cần tăng cường an ninh dữ liệu cho tổ chức, đồng thời xử lý các nhu cầu làm việc của lao động mà vẫn không tạo ra rào cản năng suất.

Đơn giản hóa: Môi trường DN số đòi hỏi phải quản lý công nghệ thông tin một cách hợp lý, khai thông dịch vụ để các dữ liệu khác nhau có thể được kết hợp và phân tích theo những phương thức mới và giảm thiểu phức tạp. Có đến 63% lãnh đạo công nghệ thông tin trong khu vực muốn đơn giản hóa việc quản lý danh mục bảo mật hiện có.

Theo ông Ralph Haupter – Chủ tịch Microsoft khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đà tiến của công nghệ kỹ thuật số sẽ đặt ra những thách thức, khó khăn trong cách vận hành và văn hóa công ty sẽ bị phá vỡ, đặc biệt các hiểm họa môi trường mạng sẽ luôn tồn tại. Điều này chỉ giải quyết được khi cách nhìn nhận của lãnh đạo thay đổi, nhân viên được trao quyền, nắm bắt tốt công nghệ và dữ liệu được bảo vệ.

Ông Ralph Haupter nói: “Trao quyền cho nhân viên, gia tốc các quy trình, làm khách hàng vui vẻ là những câu chuyện có hậu được ghi nhận từ không gian làm việc hiện đại của DN tại các quốc gia châu Á”.

Honda: Thăng trầm của một ông lớn

Honda có một thời là người dẫn dắt sự sáng tạo trong công nghệ xe hơi. Nhưng vài năm nay, Honda đang mất dần lợi thế và giờ đây đang chật vật khôi phục lại “tinh thần đua tranh” của mình.

Hãng Reuters đã phỏng vấn hơn 20 nhà quản lý, kỹ sư – đương nhiệm hoặc đã nghỉ, của Honda tại Nhật Bản, Trung Quốc và Mỹ để rút ra bài học quản trị từ thăng trầm của một ông lớn trong lĩnh vực công nghệ xe hơi.

Thời oanh liệt đã qua

Chiếc xe đua Honda McLaren hai màu trắng đỏ gầm lên, xé gió và cán đích tại Suzuka, Nhật Bản năm 1988, đưa tay lái Ayrton Senna lần đầu tiên đạt cúp quán quân giải đua xe Formula One. Không ai cản nổi đội đua McLaren và nhà chế tạo động cơ, Công ty Honda Motor: trong năm đó họ giành được 15 trong 16 giải thưởng lớn của các cuộc đua xe quốc tế.

Bên ngoài đường đua, Honda cũng liên tiếp gặt hái thành công trong thương trường. Vào thập niên 1970, mẫu động cơ CVCC của Honda đặt ra tiêu chuẩn mới, cao hơn về tiết kiệm nhiên liệu và giảm khí thải. Trong thập niên 1980, khi tay đua Senna liên tục giành chiến thắng thì xe Honda Accord và Honda Civic là những mẫu xe được ưa chuộng nhất, thành chiếc xe chủ lực của nhiều gia đình Mỹ. Năm 1997, Honda là một trong những nhà sản xuất xe hơi đầu tiên đưa ra chiếc xe chạy hoàn toàn bằng điện, chiếc EV Plus, đáp ứng yêu cầu “không phát thải” của tiểu bang California bên Mỹ.

Một đại lý của Honda tại California. Ảnh: Dublin Honda.

Nhưng giờ đây những thành tích toàn cầu đó chỉ còn là kỷ niệm. Trên đường đua, liên doanh Honda-McLaren đang gặp khó: đội đua không giành được chiến thắng nào trong mùa này và McLaren đã ngỏ ý “chia tay” vì đã hết kiên nhẫn với đối tác cung cấp động cơ cho đội đua.

Trên thương trường, Honda đã phải triệu hồi hơn 11 triệu chiếc xe đã bán ra ở Mỹ từ năm 2008 vì bị lỗi ở túi khí. Trong hai năm 2013 và 2014, công ty phải thực hiện năm cuộc triệu hồi liên tục các mẫu xe cỡ nhỏ, lai xăng-điện Honda Fit và Honda Vezel để sửa chữa khuyết điểm ở bộ phận truyền động. Trong lĩnh vực xe điện, Honda đã mất thị trường về tay Tesla và các công ty khác.

“Không nghi ngờ gì nữa, chúng tôi đã mất động lực sáng tạo – cái cốt lõi làm cho nhà chế tạo xe Honda đích thực là Honda”, ông Takahiro Hachigo, CEO của Honda, thừa nhận với Reuters.

Vì cổ đông hay vì sáng tạo?

Trả lời phỏng vấn, các quản trị viên, kỹ sư nói rằng Honda bị mắc kẹt trong cái gọi là văn hóa “monozukuri” hay là cách quản trị sản xuất của người Nhật, theo đó nhà sản xuất thường xuyên “cải tiến” dần dần hiệu quả của dây chuyền sao cho sản phẩm ngày càng có chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn mà không chấp nhận những sáng tạo có tính chất đột phá. Cách làm “kaizen” này có thời hữu dụng, nhưng những thách thức của ngày nay – điện khí hóa, vi tính hóa xe hơi, xe tự lái… – đòi hỏi một cách tiếp cận khác, nhanh hơn và linh hoạt hơn.

“Không nghi ngờ gì nữa, chúng tôi đã mất động lực sáng tạo – cái cốt lõi làm cho nhà chế tạo xe Honda đích thực là Honda.”

Điều quan trọng hơn nữa, theo các vị này, trong hai thập niên qua các nhà lãnh đạo công ty tại Tokyo đặt ưu tiên cho lợi ích của cổ đông mà hy sinh sự sáng tạo, thực hiện sự kiểm soát ngày càng chặt chẽ các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Trong nỗ lực nâng cao lợi nhuận cho cổ đông, kiểm soát chi phí và giá thành, Honda tập trung gia tăng sản lượng và doanh số mà ít đầu tư cho sáng tạo công nghệ. “Kết cục là, khi chúng tôi bị ám ảnh bởi Toyota và cố cạnh tranh với Toyota trên thương trường, chúng tôi bắt đầu giống như Toyota; chúng tôi quên mất lý do tại sao chúng tôi tồn tại như một doanh nghiệp”, Trưởng bộ phận R&D của Honda, ông Yoshiyuki Matsumoto, nói.

Đáp ứng kỳ vọng của cổ đông về tăng lợi nhuận, giảm chi phí, hai CEO nối tiếp nhau của Honda là ông Takeo Fukui (CEO từ 2003-2009) và Takanobu Ito (CEO, 2009-2015) đã phá bỏ truyền thống cho phép các quản trị viên về công nghệ được tùy nghi sử dụng khoản ngân sách R&D tương đương 5% doanh số để phát triển sản phẩm; thời ông Ito sự kiểm soát chi phí R&D còn bị siết chặt hơn nữa.

Kết quả của đường lối này là từ năm 2000 đến nay doanh thu và lợi nhuận của Honda vẫn tăng đều nhưng uy tín của hãng thì giảm sút, các mẫu xe Honda vẫn trượt dài trên các bảng xếp hạng chất lượng. Trong năm tài chính kết thúc hôm 31-3-2017, tỷ suất lợi nhuận của Honda là 6%, gần bằng mức 7,2% của Toyota nhưng trên bảng xếp hạng chất lượng của hãng nghiên cứu thị trường J.D. Power, xe Honda đã tụt từ vị trí thứ 7 năm 2000 xuống vị trí 20 năm 2017.

Một trong những ví dụ điển hình cho chính sách đặt lợi nhuận của cổ đông lên trên sự sáng tạo và chất lượng là số phận của mẫu xe Civic – mẫu xe bán chạy nhất của Honda nhờ công nghệ vượt trội so với các mẫu xe cùng phân khúc, độ tin cậy cao và giá cả phải chăng.

Từ năm 2008, khi giá xăng dầu, sắt thép và các nguyên liệu khác tăng lên tương ứng mỗi sản phẩm phải chịu thêm chi phí, 1.200-1.400 đô la, Civic được lãnh đạo công ty yêu cầu thiết kế lại sao cho giảm bớt chi phí sản xuất. Bộ phận công nghệ bị buộc phải dùng lại những linh kiện và hệ thống của những mẫu xe trước đó, sử dụng nguyên liệu rẻ tiền hơn và thu gọn kích thước của xe: giảm 45 mi li mét chiều dài, 25 mi li mét chiều ngang, 30 mi li mét khoảng cách giữa hai trục và thu nhỏ tay lái. Kết quả là mẫu xe Honda Civic 2012 bị giới kinh doanh xe hơi chê thậm tệ và không lọt vào danh sách những mẫu xe “khuyên mua” của tạp chí uy tín Consumer Reports. Đây là lần đầu tiên Honda Civic bị loại kể từ khi tạp chí này lập danh sách xếp hạng các mẫu xe từ năm 1993.

Yoshiyuki Matsumoto

Ông Yoshiyuki Matsumoto, Trưởng bộ phận R&D của Honda, nói rằng những thách thức mới như điện hóa, vi tính hóa xe hơi và xe tự lái đòi hỏi công ty phải có cách tiếp cận mới, nhạy bén hơn. Ảnh: Reuters.

Trưởng bộ phận R&D Matsumoto nói rằng, trường hợp xe Civic đặt ra bài học là đừng bao giờ hy sinh chất lượng và sự sáng tạo để chạy theo lợi nhuận của cổ đông. “Các chuyên gia công nghệ cần được tự do làm việc. Nếu bạn điều hành một trung tâm công nghệ chỉ từ quan điểm hiệu quả thì bạn sẽ giết chết nó. Đó chính là điều đã xảy ra ở Honda. Chúng tôi không muốn người của tổng hành dinh đứng ra chỉ bảo các kỹ sư cần phải làm gì”, ông Matsumoto nói. Thất bại của xe Civic 2012 buộc Honda phải thiết kế lại và mẫu xe Civic mới, thay thế mẫu Civic 2012, được các nhà báo bình chọn là mẫu xe của năm 2016 ở thị trường Bắc Mỹ.

James Chao, nhà tư vấn của Công ty HIS Markit Automotive, nói rằng dưới thời ông Fukui và Ito, Honda đã bị tụt hậu về thiết kế và công nghệ nhưng thành tích kinh doanh đã che mờ khuyết điểm này. Tuy nhiên cũng có ý kiến người trong cuộc cho rằng quyết định giảm chi phí của các CEO Ito và Fukui là cần thiết trong bối cảnh cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008.

Bỏ lỡ cơ hội?

Sau khi cho ra đời chiếc xe điện EV Plus gây tiếng vang năm 1997, đến năm 2003, Honda lại có một lựa chọn khác: giảm đầu tư vào xe điện để theo đuổi loại xe chạy bằng khí hydro (hydrogen-fueled car), không phát ra khí thải. CEO Fukui cảm thấy Honda lúc đó đã đầu tư dàn trải vào nhiều lĩnh vực nghiên cứu nên quyết định giảm ưu tiên cho xe điện. Ông Fukui cũng đã có một dự đoán đúng rằng công nghệ sản xuất bình điện sẽ được thương mại hóa và trong tương lai Honda có thể mua bình điện cho xe của mình khi cần thiết. Tuy vậy, năm 2013 khi Honda quay lại thị trường xe điện, 16 năm sau ngày ra đời của xe EV Plus, thì các đối thủ đã tiến xa rồi, không chỉ về năng lực của bình điện mà cả về thiết kế lẫn năng lực của động cơ.

“Các chuyên gia công nghệ cần được tự do làm việc. Nếu bạn điều hành một trung tâm công nghệ chỉ từ quan điểm hiệu quả thì bạn sẽ giết chết nó. Đó chính là điều đã xảy ra ở Honda.”

Ngày nay, ngành xe hơi đang đối mặt với những thách thức mới như trí tuệ nhân tạo, xe tự lái… buộc các ông lớn phải nghĩ lại cách thiết kế và sản xuất xe hơi. “Thời đại mới đòi hỏi cách tiếp cận hoàn toàn mới”, ông Matsumoto nói.

Ông Hachigo, gia nhập Honda năm 1982 với công việc kỹ sư và trở thành CEO vào tháng 6-2015, giờ đây đang nỗ lực thay đổi cách tiếp cận và vực dậy tinh thần sáng tạo của Honda. Hai trong những biện pháp chính của ông là trao thêm quyền tự chủ cho bộ phận công nghệ và hợp tác với các tay chơi khác để thúc đẩy các công nghệ mới: hợp tác với Hitachi Ltd để nghiên cứu và sản xuất động cơ xe hơi điện, với General Motors để sản xuất hệ thống hydrogen fuel cell ở Mỹ và cung cấp xe cho Google để cùng phát triển công nghệ xe tự lái.

Trong nội bộ công ty đã bắt đầu hình thành các “tổ tự quản” quy tụ những nhóm nhỏ kỹ sư, nhà quản lý và kế hoạch làm việc cùng nhau theo từng dự án độc lập – theo mô hình skunkworks (bộ phận R&D những lĩnh vực mới) đã được áp dụng từ lâu ở các đại công ty như Lockheed Martin, Apple và Google – thay vì tất cả đều chịu chung sự chỉ đạo của lãnh đạo công ty như từ trước tới nay. Các tổ này đang âm thầm làm việc trong hậu trường để thay đổi Honda, từ quy trình phát triển sản phẩm, phát triển các công nghệ mới cho nhiều mẫu xe, và làm ra các mẫu xe hiệu năng cao hơn, phù hợp hơn với sự thay đổi thị hiếu của thị trường.

Ông Matsumoto nói rằng, sự thay đổi không xảy ra trong một sớm một chiều nhưng chắc chắn có tác dụng tốt. “Hầu như mọi sự thay đổi đều bắt đầu từ các yếu tố bên lề, nhưng rõ ràng ở đâu đó trong công ty vẫn còn cái động lực sáng tạo tưởng chừng như đã mất. Cái gen sáng tạo vẫn còn trong máu chúng tôi”, ông nói.

Startup kinh doanh sữa chiết xuất từ… cây

Kể từ khi ra mắt vào tháng 4/2016, Ripple đã bán được 2,5 triệu chai sữa chiết xuất từ cây với doanh thu 20 triệu USD. Mới đây, Công ty nhận được 44 triệu USD vốn đầu tư từ Google và một số nhà đầu tư mạo hiểm của Thung lũng Silicon.

Theo Hãng nghiên cứu thị trường Mintel, năm 2015, tổng doanh thu ngành sữa của Mỹ giảm 7% (17,8 tỷ USD) và dự báo sẽ giảm thêm 11% vào năm 2020. Trong khi đó, doanh thu sữa hạnh nhân từ năm 2011 tới 2015 tăng tới 250%, theo Bloomberg.

Tuy nhiên, những sản phẩm mới này có một số điểm yếu như: sữa đậu nành có vị khá nhạt và hạt đậu nành thì thường bị gắn mác biến đổi gien; hay sữa hạnh nhân dù giàu protein nhưng chỉ bằng 1/8 so với sữa bò truyền thống và cần dùng lượng nước lớn trong quá trình sản xuất. Trong khi đó, sữa gạo dù có vị ngon dịu nhưng lại ít protein.

Hiểu được những điều đó, startup Mỹ có tên Ripple tung ra loại sản phẩm sữa hoàn toàn mới được chiết xuất từ đậu Hà Lan vàng (yellow pea) – loại cây dễ trồng và cho hương vị thanh đáng kinh ngạc.

2 nhà đồng sáng lập startup này là Adam Lowry và Neil Renninger. Trước khi cùng thành lập Ripper, Adam Lowry đồng sáng lập Công ty sinh thái Ethod với doanh thu hơn 100 triệu USD và sau đó bán cho Công ty Ecover của Bỉ vào năm 2012. Còn Neil Renninger từng xây dựng Công ty Amyris Biotechnologies chuyên dùng công nghệ để tạo ra nhiên liệu tái chế với nguồn đầu tư ban đầu từ Gates Foundation của tỷ phú Bill Gates.

Năm 2014, Lowry và Renninger nhìn thấy cơ hội trước những thay đổi của ngành công nghiệp chế biến sữa. “Hệ thống sản xuất thực phẩm chiếm tới 20% lượng khí thải carbon trên thế giới và 25% trong số đó là từ sữa. Tác động tới môi trường là rất lớn. Nhiều hơn thịt bò và gà, sữa là nguồn thải carbon lớn nhất tính theo số lượng. Điều đó khiến tôi phải suy nghĩ”, Renninger cho biết.

Lowry và Renninger bắt đầu tìm kiếm một sản phẩm vừa có vị ngon vừa giảm tác động tới môi trường hơn so với các loại sữa truyền thống và chế phẩm thay thế sữa hiện có.

“Chúng tôi thấy tiềm năng rất lớn và còn nhiều ‘đất’ dành cho cải tiến thực phẩm bằng công nghệ. Thế giới đang ngày càng nhận ra rằng chúng ta cần có nhiều sản phẩm làm từ cây hơn, giống như burger không thịt vậy. Tuy nhiên phần lớn thực phẩm là từ cây, đặc biệt là sữa, lại cho hàm lượng protein thấp và vị không ngon”, Renninger nói.

2 nhà đồng sáng lập startup Ripple

Sử dụng công nghệ do Renninger phát triển, họ bắt đầu thử chiết xuất sữa từ nhiều loại cây nổi tiếng với hàm lượng protein cao nhưng đa số lại có vị khó uống. Sau đó, họ thử đậu Hà Lan vàng – loại cây dễ trồng, không đắt mà vị lại không gắt như các cây khác. Kết quả thu được loại thức uống có vị giống sữa bột cô đặc, sánh và mịn.

Mỗi chai sữa của Ripple chứa lượng protein tương đương với sữa bò truyền thống (nhưng cao hơn nhiều so với sữa hạnh nhân). Tuy nhiên, điểm khiến Ripple trở nên khác biệt là có lượng khí thải ra môi trường thấp hơn hẳn so với các phương pháp sản xuất sữa hiện tại.

Theo nghiên cứu của họ, mỗi chai Ripple hơn 1,4 lít (chai đựng làm 100% từ vật liệu tái chế ) giúp giảm được hơn 1.500 gram khí thải carbon dioxide và 3,5m3 nước so với một chai sữa truyền thống có thể tích tương đương.

Theo đó, 2,5 triệu chai Ripple đã bán ra giúp giảm được 3.500 tấn khí thải carbon dioxide, tương đương giảm hơn 600 xe hơi mỗi năm. Trong khi đó, để có được lượng protein tương đương, quy trình sản xuất sữa hạnh nhân cần tới gần 250 triệu m3 nước.

Hiện tại, 5 loại sữa gồm “cơ bản” và “thêm vị” của Ripple được bày bán tại các cửa hàng, siêu thị như Whole Foods và Target Corp. Ripple dự kiến sẽ tung ra thêm loại sữa chua làm bằng tinh chất chiết xuất từ cây và thêm các vị như dâu tây, việt quất, vani… theo kiểu Hy Lạp trong thời gian tới.

“Chúng tôi đang thử các hương vị mới từ cây thích và chanh giấy”, Lowry nói. Sữa chua là bước đi tiếp theo hợp lý cho Ripple để được xếp vào danh mục món tráng miệng, ăn vặt.

“Hầu hết khách hàng muốn dùng các loại thực phẩm xanh hơn và xu hướng này đang ngày càng lớn hơn”, Renninger cho biết.

Nói về giá cả, Renninger cho biết, sản phẩm của Ripple đang ở mức cao hơn so một số loại sữa thông thường nhưng họ sẽ tìm cách giảm giá thành trong vài năm tới.

Samsung – thương hiệu giá trị nhất châu Á

Samsung đã trở thành thương hiệu có giá trị nhất châu Á, theo một bảng xếp hạng toàn cầu do Hãng tư vấn Mỹ Interbrand thực hiện, tờ Nikkei cho hay.

Samsung đã vượt qua Toyota để trở thành thương hiệu có giá trị nhất châu Á lần đầu tiên, theo một bảng xếp hạng toàn cầu do Hãng tư vấn Mỹ Interbrand thực hiện.

Bản danh sách thương hiệu toàn cầu giá trị nhất năm 2017 bao gồm 11 công ty đến từ châu Á – con số tương tự như năm ngoái. Nhưng việc các thương hiệu Hàn Quốc vượt lên so với các đối thủ Nhật Bản cho thấy sự thay đổi liên tục trong thị trường, nơi mà các công ty năng động hơn ở châu Á đang lấn lướt một số công ty Nhật Bản trước đây từng thống trị thị trường.

Cuộc khảo sát cũng nhấn mạnh sức mạnh thương hiệu hạn chế của các công ty Trung Quốc, bất chấp quy mô và vốn hóa thị trường lớn của họ. Mức độ phổ biến của các công ty này vẫn còn hạn chế trong thị trường đại lục.

Samsung đã tiến lên vị trí thứ 6 bất chấp hàng loạt bê bối gần đây. Giám đốc điều hành Interbrand Nhật Bản – Masahito Namiki – cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng: “Trong 10 năm qua, Samsung đã thực hiện các chính sách giúp củng cố thương hiệu của Hãng. Chính sách vẫn không thay đổi, bất chấp những xáo trộn của bộ máy lãnh đạo, giúp hạn chế ảnh hưởng của những bê bối đó lên hình ảnh thương hiệu của công ty”.

Toyota xếp thứ 7, đây là một bước thụt lùi khi năm ngoái nhà sản xuất xe hơi này trở thành công ty châu Á đầu tiên giành vị trí thứ 5. Doanh số của Toyota tại thị trường trọng điểm là Mỹ đã suy giảm. Đồng thời, công ty cũng phải đối mặt với chi phí gia tăng cho việc phát triển xe ô tô tự lái – lĩnh vực mà các công ty công nghệ của Mỹ như Google và Tesla dẫn đầu.

Ông Namiki cho biết: “Câu hỏi đặt ra đối với ngành công nghiệp ô tô là liệu nó có thể duy trì tăng trưởng khi đối mặt với áp lực cạnh tranh mới từ các ngành công nghiệp khác hay không”.

Trích danh sách 100 công ty giá trị nhất thế giới theo đánh giá của Interbrand. Nguồn: Nikkei

Theo Interbrand, sức mạnh thương hiệu là điều cốt yếu để thành công trong kinh doanh. Nó giúp công ty thu hút và giữ chân nhân tài, đồng thời, cho phép các công ty tăng giá bán. Thêm vào đó, số tiền thu được có thể được đầu tư vào các sản phẩm mới để tăng cường thương hiệu.

Google đứng thứ hai sau Apple, điều đã được duy trì trong 4 năm qua. Microsoft, Coca-Cola và Amazon cũng đã lọt vào top 5.

Trong số 11 thương hiệu châu Á, Nhật bản có 6 công ty, hầu hết đều tụt hạng: Canon tụt xuống vị trí 52 từ vị trí 42, Sony xuống vị trí 61 từ vị trí 58, và Panasonic xuống vị trí 75 từ vị trí 68.

Trong khi đó, Honda đã leo lên vị trí 20 từ vị trí 21 trong năm ngoái. Hãng đã hưởng lợi từ vụ phá sản của Hãng sản xuất túi khí Takata – một đối tác kinh doanh thân thiết với mình – dự kiến ​​sẽ giúp giảm bớt gánh nặng của Hãng trong việc thu hồi hàng triệu túi khí Takata bị lỗi.

Nissan cũng đã leo lên vị trí thứ 39 từ vị trí 43, nhờ tung chiếc xe điện Leaf phiên bản mới và áp dụng công nghệ tự đỗ xe và tự phanh. Những đổi mới này đã củng cố vị thế của một công ty trong lĩnh vực xe điện và xe tự lái.

Danh sách của Interbrand chỉ bao gồm các công ty có sự hiện diện trên toàn cầu, và tập trung vào các công ty niêm yết có tài chính minh bạch. Do những tiêu chí này, nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn nhất của Trung Quốc đã bị bỏ qua.

Trung Quốc chỉ có 2 thương hiệu nằm trong top 100 là nhà sản xuất điện thoại thông minh Huawei (đứng thứ 70) và Lenovo (đứng thứ 100).