Category Archives: Pages

BIDV khó trở thành cổ đông chiến lược của ACV

Chiếu theo những tiêu chí về nhà đầu tư chiến lược của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) đã được Bộ GTVT phê duyệt thì Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) khó có thể trở thành cổ đông chiến lược của ACV.

Tính đến thời điểm này, chỉ có hai công ty là Tập đoàn Aeroport de Paris (ADP) của Pháp và Ngân hàng BIDV đã gửi văn bản đề nghị làm cổ đông chiến lược tại ACV. Tập đoàn ADP đề nghị mua toàn bộ số cổ phần bán ra tại đây (20% cổ phần – NV), còn BIDV đề nghị mua 5% cổ phần.

Theo tiêu chí đã được Bộ GTVT phê duyệt mới đây thì muốn đăng ký mua cổ phần tại ACV với tư cách nhà đầu tư chiến lược, cổ đông phải đáp ứng một trong số ba điều kiện sau:

(1) Nếu nhà đầu tư là doanh nghiệp hoạt động cùng lĩnh vực cảng hàng không thì phải có doanh thu tối thiểu hàng năm là 1,5 tỉ đô la Mỹ, hiện đang vận hành khai thác 10 cảng hàng không. Ngoài ra, báo cáo tài chính của doanh nghiệp năm 2014 không có lỗ lũy kế, lợi nhuận năm 2014 tối thiểu 10% doanh thu. Vốn chủ sở hữu doanh nghiệp không thấp hơn 2 tỉ đô la Mỹ hoặc tương đương.

(2) Nếu nhà đầu tư là tổ chức tài chính thì phải có vốn chủ sở hữu hết năm 2014 không thấp hơn 5 tỉ đô la Mỹ hoặc tương đương. Báo cáo tài chính năm 2014 không lỗ lũy kế và và lợi nhuận năm 2014 tối thiểu bằng 5% doanh thu.

(3) Nếu nhà đầu tư không thuộc hai trường hợp nêu trên thì có thể là doanh nghiệp được thành lập dưới hình thức tổ hợp các nhà đầu tư liên doanh với nhau (tối đa là 3 nhà đầu tư tổ chức thành một tổ hợp). Trong tổ hợp này có thể có các nhà đầu tư kinh doanh nhiều lĩnh vực khác nhau song ít nhất phải có một nhà đầu tư là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực quản lý khai thác cảng hàng không với quyền quản lý khai thác hoặc được thuê để quản lý, khai thác 5 sân bay trở lên. Doanh nghiệp hàng không trong tổ hợp này phải có doanh thu năm 2014 tối thiểu 1 tỉ đô la Mỹ và vốn chủ sở hữu tại thời điểm hết năm 2014 không thấp hơn 2 tỉ đô la Mỹ.

Nếu chiểu theo các tiêu chí theo thứ tự nêu trên thì tập đoàn ADP là ứng cử viên số một. ADP đang quản lý vận hành 37 cảng hàng không trên toàn thế giới, trong đó có các sân bay lớn như Charles de Gaulle (Paris, Pháp) và các sân bay tại Nam Mỹ, Châu Âu, Châu Á với doanh thu hàng năm hơn 3 tỉ euro.

Riêng về trường hợp Ngân hàng BIDV, chiếu theo tiêu chí thứ hai thì vốn chủ sở hữu của BIDV hiện nay mới là 34.187 tỉ đồng, tính ra chưa đầy 2 tỉ đô la Mỹ trong khi tiêu chí nhà đầu tư tài chính phải có vốn chủ sở hữu khoảng 5 tỉ đô la Mỹ.

Theo một thành viên Ban chỉ đạo cổ phần hóa ACV, nếu BIDV vẫn muốn trở thành đối tác chiến lược tại đây thì phải liên doanh với các nhà đầu tư khác để trở thành tổ hợp nhà đầu tư; sau đó tổ hợp này sẽ tham dự đấu giá (nếu có nhiều nhà đầu tư cùng tham gia) hoặc mua bán thỏa thuận (nếu chỉ có một nhà đầu tư tham gia).

Chỉ vài ngày nữa, ngày 10-12-2015, ACV sẽ thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) và giá IPO được xem là một căn cứ để bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược.

Tuy nhiên, việc chọn cổ đông chiến lược cho một doanh nghiệp lớn như ACV dự kiến sẽ kéo dài vì tính chất phức tạp và quy mô của đợt bán cổ phần. Như trường hợp của Vietnam Airlines chẳng hạn, hơn một năm sau cổ phần hóa, hãng vẫn chưa chọn được, chưa công bố được tên của đối tác chiến lược.

 

 

Thành lập công ty tư vấn: Khi nào, như thế nào? Thành lập công ty tư vấn: Khi nào, như thế nào?

Nếu bạn muốn mở một công ty không đòi hỏi quá nhiều vốn đầu tư ban đầu, nếu bạn có khả năng giúp các doanh nghiệp khác giải quyết những vấn đề của họ thì bạn có thể nghĩ đến việc thành lập một công ty tư vấn.

Nhưng những công việc thực sự của một công ty tư vấn là gì? Và cần làm gì để thành lập nên một công ty tư vấn? Business Know-How có một số gợi ý hữu ích sau đây:

Công ty tư vấn thường làm gì?

Các công ty tư vấn thường được các công ty/tổ chức thuê để:

– Xác định các vấn đề: Đôi khi nhân viên của chính công ty/tổ chức đó đã “sống chung với lũ” quá lâu nên không thể nhìn nhận được vấn đề mình đang mắc phải cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề đó.

– Hỗ trợ tạm thời: Nhiều công ty thuê công ty tư vấn để hỗ trợ họ trong một quãng thời gian nhất định thay vì tuyển dụng nhân viên chính thức (việc này có thể tốn nhiều chi phí hơn).

– Mang lại sức sống mới cho một công ty/tổ chức: Công ty tư vấn cũng thường là lựa chọn phù hợp giúp thổi một làn gió mới vào môi trường làm việc của những công ty/tổ chức đã đi vào lối mòn sau một thời gian dài hoạt động.

– Truyền đạt một kỹ năng mới: Đây thường là chức năng chính của các công ty tư vấn lĩnh vực công nghệ. Khách hàng thường nhờ họ hướng dẫn cách thức sử dụng các trang thiết bị mới hoặc các tiện ích công nghệ hiện đại.

Công việc đa dạng đòi hỏi một chuyên gia tư vấn cần phải sở hữu những kỹ năng cần thiết sau đây:

– Lắng nghe: Khi khách hàng nói, nhà tư vấn sẽ lắng nghe. Việc tập trung tối đa vào các vấn đề của khách hàng mới có thể giúp họ tìm ra giải pháp hợp lý.

– Nghiên cứu: Một chuyên gia tư vấn giỏi phải có kỹ năng nghiên cứu tốt để tìm ra những dữ liệu cần thiết nhằm đáp ứng mục tiêu của khách hàng.

– Hành động: Hành động hợp lý hoặc đôi khi phải chấp nhận liều lĩnh để hoàn thành nhiệm vụ là trách nhiệm của nhà tư vấn.

Tại sao bạn nên trở thành một chuyên gia tư vấn?

Mặc dù tiền bạc thường là yếu tố quan trọng khiến một người muốn trở thành nhà tư vấn, tuy nhiên, vẫn còn một số lý do khác như:

– Được làm việc cho chính mình: Nếu bạn có ước mơ được trở thành ông/bà chủ của chính mình thì trở thành chuyên gia tư vấn là lựa chọn phù hợp, vì với nghề này, bạn chỉ phải chịu trách nhiệm cho sự nghiệp của chính mình chứ không phải của bất kỳ ai khác.

– Bạn sở hữu tài năng giúp hái ra tiền: Bạn là một “chuyên gia” kêu gọi tài trợ, một “phù thủy” máy tính hoặc một bậc thầy marketing? Chỉ cần nhận ra tài năng đặc biệt của mình, bạn sẽ tìm được khách hàng sẵn sàng chi tiền để được bạn tư vấn.

– Bạn tin rằng mình có khả năng tạo ra sự khác biệt: Nhiều người trở thành chuyên gia tư vấn vì thể hiện được sự xuất sắc trong một lĩnh vực cụ thể hơn bất kỳ ai khác trong lĩnh vực đó và luôn tạo ra sự khác biệt, dù là trong một tổ chức kinh doanh hay tổ chức phi lợi nhuận.

Các bước để thành lập công ty tư vấn

– Đánh giá và lựa chọn kỹ năng, sở trường của mình: Để gắn bó với sự nghiệp tư vấn, bạn phải nhận thức rõ về thế mạnh lẫn điểm yếu của mình một cách trung thực. Đặc biệt, đừng bao giờ chọn một chuyên môn tư vấn chỉ vì nó đang “hot” trên thị trường, mà phải chọn đúng lĩnh vực mà bạn có thể tạo ra sự khác biệt.

– Nghiên cứu sâu về lĩnh vực mà mình sẽ tư vấn: Nếu muốn trở thành một chuyên gia tư vấn về máy tính, hãy nghiên cứu cẩn thận tất cả mọi thứ về lĩnh vực máy tính. Ai sẽ sử dụng dịch vụ tư vấn máy tính? Việc tư vấn sẽ mang lại khoảng bao nhiêu tiền? Lĩnh vực này có dễ tìm kiếm khách hàng?…

– Xác định khách hàng mục tiêu: Dù hoạt động trong lĩnh vực nào, bạn cũng phải xác định rõ khách hàng mục tiêu ngay từ đầu. Ví dụ, họ là những công ty/tập đoàn lớn hay các tổ chức phi lợi nhuận, hay chỉ là khách hàng cá nhân?

– Thành lập công ty: Sau khi bạn tin rằng mình đã sẵn sàng, bước cuối cùng cần phải thực hiện là nhanh chóng hoàn tất các thủ tục pháp lý cần thiết. Đừng xem nhẹ bước này, dù là khi bạn chọn cách đơn giản nhất là làm việc trong chính ngôi nhà mình.

10 lĩnh vực tư vấn tiềm năng

– Kế toán: Mỗi doanh nghiệp đều cần có một đội ngũ kế toán giỏi. Vì thế, nhu cầu tư vấn trong lĩnh vực này rất lớn.

– Quảng cáo: Giá quảng cáo ngày càng đắt đỏ nên nhiều công ty mong muốn có thể đầu tư tiền sao cho hiệu quả nhất trong việc quảng bá thương hiệu/sản phẩm/dịch vụ.

– Hướng nghiệp: Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp nảy sinh từ thực trạng ngày càng nhiều nhân viên bị sa thải vì nhiều doanh nghiệp muốn thu hẹp quy mô hoạt động.

– Máy tính: Từ phần mềm đến phần cứng và rất nhiều kiến thức/kỹ năng khác có liên quan đến máy tính là nhu cầu của rất nhiều công ty/tổ chức. Nếu là bậc thầy trong lĩnh vực này, bạn sẽ không cần phải lo lắng nhiều đến việc tìm kiếm khách hàng.

– Tìm kiếm nhân sự cấp cao: Mặc dù xu hướng hiện nay là tinh giản bộ máy quản lý, các công ty tư vấn về “săn đầu người” vẫn luôn ăn nên làm ra.

– Nguồn nhân lực: Miễn là doanh nghiệp/tổ chức còn gặp vấn đề về con người, lĩnh vực tư vấn này sẽ còn được săn đón.

– Quan hệ công chúng (PR): Gần như doanh nghiệp nào cũng có nhu cầu xây dựng quan hệ hợp tác tốt với các cơ quan truyền thông, báo chí.

– Quản lý: Nếu bạn có khả năng giúp một doanh nghiệp quản lý việc kinh doanh và giải quyết các vấn đề khó khăn của họ, họ sẽ tìm mọi cách để có được sự tư vấn của bạn.

– Bảo hiểm: Mọi công ty đều cần mua bảo hiểm, và nếu đây là chuyên môn của bạn, hãy tận dụng nó.

– Giáo dục: Lĩnh vực này luôn có nhu cầu khá lớn, chẳng hạn như nhiều bậc phụ huynh muốn được tư vấn để tìm học bổng phù hợp cho con em hoặc các trường học cũng muốn được tư vấn để cắt giảm chi phí hợp lý.

Giá dầu giảm xuống dưới 40 đô la/thùng, thấp nhất 7 năm

Ngày 7-12, giá dầu Brent giảm xuống mức thấp nhất 7 năm qua, trong khi giá dầu WTI giảm xuống mức thấp nhất 6 năm qua do Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) quyết định không cắt giảm sản lượng vào cuối tuần trước và đô la Mỹ tăng giá.

Đóng cửa giao dịch ngày 7-12 tại London, giá dầu Brent giao tháng 1-2016 giảm 5,35% so với ngày trước đó, xuống còn 40,7 đô la Mỹ/thùng – mức thấp nhất kể từ tháng 2-2009.

Cùng ngày, tại thị trường Mỹ, giá dầu WTI giao tháng 1-2016 giảm 5,85% so với ngày trước đó, đóng cửa ở mức 37,63 đô la Mỹ/thùng.

Tại cuộc họp cuối tuần qua, OPEC quyết định duy trì sản lượng khai thác hiện nay ở mức từ 30-31,3 triệu thùng dầu/ngày, dẫn đến tình trạng dư thừa khoảng 2,5 triệu thùng dầu/ngày trên thị trường.

Trong khi đó, giá đô la Mỹ tăng với kỳ vọng Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) có thể tăng lãi suất trong cuộc họp ngày 15-12 và 16-12, gây áp lực lên giá hàng hóa, trong đó có dầu thô.

Nhà phân tích thị trường dầu Jamie Webster của IHS dự báo trong năm tới, sản lượng dầu của OPEC sẽ còn tăng hơn nữa.

Sau cuộc họp của OPEC, Goldman Sachs dự báo giá dầu trong vài tháng tới có nguy cơ giảm xuống còn 20 đô la Mỹ/thùng. Trước đó vào tháng 9-2015, Goldman Sachs đã cảnh báo giá dầu có thể giảm xuống còn 20 đô la Mỹ/thùng.

5 bài học quan trọng nhà khởi nghiệp cần biết

Đây là những bài học quan trọng mà Robert Li – Nhà sáng lập của RET.asia (một trang web kết nối cộng đồng đầu tư bất động sản) rút ra được sau khi tham gia chương trình Hội trại khởi nghiệp Ventures Alpha Startups Bootcamp tại Philippines, được đăng tải trên trang Tech in Asia

1. Đừng là người đầu tiên mà hãy là người cuối cùng 

Trở thành người cuối cùng không có nghĩa bạn thiếu khả năng sáng tạo hay dở hơn người khác.

Trước năm 2000, khi “quả bóng” dotcom bùng nổ đã có hơn 70 công cụ tìm kiếm, trong đó có W3Catalog, ra đời nhằm phục vụ nhu cầu tìm kiếm của con người trên internet. Đa phần trong số chúng giờ không còn tồn tại, đặc biệt khi 68% thị trường công cụ tìm kiếm toàn cầu hiện đã về tay “gã khổng lồ” Google và tất nhiên, cũng chẳng ai còn nhớ W3Catalog như công cụ tìm kiếm đầu tiên xuất hiện trên internet.

Bài học rút ra ở đây là người tiên phong chưa hẳn là người tạo bước đột phá, và cho dù làm được điều đó cũng không có gì đảm bảo bạn sẽ đánh bật các đối thủ trong tương lai.

Do đó, đừng quá lo lắng về xuất phát điểm của bản thân, bởi vì trong kinh doanh, người “trụ” lại sau cùng mới là người chiến thắng.

2. Học cách lắng nghe

Hầu như ai bắt đầu khởi nghiệp cũng đều tràn đầy nhiệt huyết và tin rằng mình có thể tạo ra giải pháp tốt nhất cho vấn đề hiện tại. Suy nghĩ này là điều cần thiết nhưng đồng thời cũng là con dao hai lưỡi nếu bạn là người chưa biết cách lắng nghe người khác.

Một trong những kỹ năng quan trọng nhất đối với nhà khởi nghiệp là học lắng nghe một cách chân thành.

Hãy coi trọng bài học từ những người từng khởi nghiệp thất bại, xem những chia sẻ của họ như cơ hội học hỏi kinh nghiệm và lắng nghe lời khuyên từ tất cả mọi người kể cả khi bạn chưa cần đến chúng.

3. Kiên trì tới cùng

Theo Robert, mọi phương pháp về khởi nghiệp đều chỉ tóm gọn trong 3 bước đơn giản. Đó là: Sáng tạo, thử nghiệm, và lặp lại. Về bản chất, kinh doanh là quá trình phát triển bằng việc thử nghiệm những cái mới và liên tục học hỏi từ những cái cũ. Do đó, hãy kiên trì tới cùng và đừng bỏ cuộc giữa chừng.

4. Đừng ảo tưởng về tiền đầu tư

Số tiền đầu tư sẽ không làm cho bạn trông có vẻ giàu hơn hay giúp công ty đạt doanh thu cao hơn mà thực chất, đó là khoản nợ bạn phải trả trong tương lai. Tuy nhiên không phải nhà khởi nghiệp nào cũng ý thức được điều này.

Dù đó là tiền của cha mẹ đầu tư cho bạn thì ít nhất họ cũng hy vọng bạn biết cách sử dụng chúng một cách khôn ngoan. Cho nên nếu số tiền đó đến từ các quỹ đầu tư mạo hiểm thì chắc chắn sự mong đợi còn cao hơn thế. Bởi họ đầu tư tiền cho bạn không phải để bạn làm những điều mình muốn, và cũng chưa chắc đó là tiền của họ.

Nhà đầu tư mạo hiểm quản lý các quỹ đầu tư mạo hiểm, nơi nhà khởi nghiệp được xem như một thương vụ đầu tư nên họ luôn mong đợi công ty sẽ có khả năng sinh lời như dự kiến.

Vì vậy, bạn nên xác định rằng càng nhiều nhà đầu tư mạo hiểm quyết định đầu tư vào công ty thì bạn càng phải làm việc chăm chỉ. Bạn càng kiếm được nhiều tiền thì những mong đợi từ họ sẽ càng cao. Do đó, hãy biết lượng sức mình!

5. Học cách làm việc thông minh

Khi khởi nghiệp, bạn phải chấp nhận việc sẵn sàng làm thêm giờ và dồn hết tâm trí phát triển ý tưởng bởi không ai trên thế giới này hiểu và quan tâm đến chúng bằng bạn.

Tuy nhiên đây vốn là một công việc vất vả và diễn ra đều đặn trong thời gian dài do đó, nếu chỉ chăm chỉ thôi sẽ chưa đủ mà bạn cần biết làm việc một cách thông minh.

Ngoài ra, để thành công trong kinh doanh, nhà khởi nghiệp phải có tầm nhìn, biết tính toán rủi ro, khéo léo và thêm một chút may mắn nữa.

Cần khung pháp lý thế nào cho Uber?

Đến thời điểm này hầu như ai cũng thừa nhận rằng Uber có nhiều ưu việt so với taxi truyền thống. Tuy vậy, Uber quá mới, nên chưa có một cơ sở pháp lý nào cho hoạt động của hãng tại Việt Nam. Bài viết này phác họa một vài điểm cần lưu ý trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho hoạt động của Uber.

Trong lịch sử, chẳng ngành kinh doanh nào mới ra đời mà không gặp nhiều sóng gió. Mấy ngày này, báo chí bàn tán khá nhiều xoay quanh chuyện đề án của Uber vẫn chưa thuyết phục được Chính phủ. Điều đó dẫn đến những quan ngại nhất định về tương lai của Uber tại Việt Nam (để thuận tiện, chữ Uber trong bài này được hiểu bao gồm Uber, Grab Taxi và các ứng dụng hỗ trợ việc kinh doanh vận tải tương tự).

Dù Chính phủ đã rất mong muốn cho Uber đi vào thực tế, tạo nên sự đổi mới ngành taxi và xa hơn là ngành vận tải trong nước, nhưng trong nửa năm vừa rồi, mọi chuyện dường như vẫn loay hoay tại chỗ: “Tất cả đã xong, chỉ còn thiếu gió đông”.

Nếu tôi có ô tô, cuối tuần ai có nhu cầu, tôi chở chạy lòng vòng quanh TPHCM tăng thu nhập. Pháp luật không cấm tôi làm việc đó. Vấn đề là: làm sao để những người có nhu cầu biết là tôi đang muốn chở khách, trong khi xe của tôi cũng như bao chiếc xe ô tô khác không hề có bảng hiệu hoặc bất cứ một dấu hiệu nhận dạng nào. Uber đã giải quyết vấn đề này thông qua ứng dụng của họ. Như vậy là, thay vì phải nhìn xe (xem có gắn nhãn taxi) hoặc gọi điện (đến tổng đài của các hãng taxi), bằng công nghệ của mình, Uber đã giúp cho các bên có nhu cầu kết nối được với nhau.

Như vậy, sự khác biệt của việc có hay không có ứng dụng Uber, cũng không làm thay đổi bản chất của mối quan hệ giao dịch trên. Nhưng nếu có Uber, tôi có thể chạy được nhiều cuốc xe hơn so với khi không có ứng dụng này. Như vậy có hai vấn đề cần phải cân nhắc trong quá trình xây dựng khung pháp lý để điều chỉnh đối với hoạt động của Uber là: (1) Sự an toàn của hành khách và bên thứ ba trong quá trình di chuyển bằng Uber, và (2) Hoạt động của Uber là hoạt động phát sinh lợi nhuận. Không có lý do gì để không đánh thuế đối với Uber.

Đối với vấn đề (1): Sự khác biệt căn bản giữa taxi truyền thống và các tài xế Uber là sự khác biệt về quy mô. Khi đã đăng ký kinh doanh ở lĩnh vực taxi, các hãng taxi phải thực hiện các yêu cầu đối với kinh doanh vận tải hành khách như mua bảo hiểm và thực hiện các nghĩa vụ như gắn hộp đen… Chính những điều này làm cho chi phí của các hãng cao. Trong khi đó, xe của các tài xế Uber về bản chất vẫn là xe tư nhân, không phải chịu sự ràng buộc như các yêu cầu của Nhà nước đối với các hãng taxi.

Tuy vậy, công bằng mà nói, chi phí của các hãng taxi cao nào phải chỉ vì bảo hiểm và chi phí đầu tư hộp đen. Bản chất các hãng kinh doanh dưới hình thức là doanh nghiệp, nên các hãng taxi phải tốn chi phí vận hành. Đồng thời, với việc kinh doanh chủ yếu dựa trên yêu cầu của khách hàng một cách bị động (chờ khách hàng gọi đến tổng đài hoặc tài xế phải tự chạy xe rong ruổi để tìm khách), cũng làm cho chi phí các hãng này tăng lên. Do đó lập luận các hãng taxi cho rằng họ phải đáp ứng các yêu cầu về điều kiện kinh doanh vận tải nên chi phí đội lên cao hơn so với các tài xế Uber là không thỏa đáng.

Nhìn vào bảng bên, chi phí của các hãng taxi cao là vì bộ máy điều hành và sự lãng phí trong việc các xe rong ruổi trên đường tìm khách hàng.

Để xử lý vấn đề (1), khi xây dựng luật cần quy định nghĩa vụ các tài xế Uber phải có bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Trên thực tế, khi mua xe, nghĩa vụ các chủ xe đều đã phải mua bảo hiểm này rồi. Có thể cân nhắc một loại bảo hiểm với mức cao hơn các loại bảo hiểm thuần túy dành cho xe bình thường. Đồng thời, tài xế Uber phải luôn để chứng nhận bảo hiểm này ở vị trí trên xe mà khách hàng dễ dàng nhìn thấy. Đó cũng là tiêu chí đánh giá tài xế. Nếu tài xế vi phạm nghĩa vụ này, Uber có nghĩa vụ phải yêu cầu tài xế này chấm dứt tư cách tài xế Uber.

Đối với vấn đề (2), việc đánh thuế đối với Uber là một việc bình thường. Đã là một doanh nghiệp, hưởng lợi từ Việt Nam thì phải đóng thuế, bất kể đó là doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài. Vấn đề là, với đặc thù về lĩnh vực hoạt động, việc Uber có thành lập pháp nhân tại Việt Nam hay không, về cơ bản không ảnh hưởng nhiều đến việc thu thuế.

Bản chất của việc đánh thuế thu nhập doanh nghiệp là phải xác định được doanh thu và lợi nhuận của hãng. Để đáp ứng yêu cầu thu thuế, cần lưu ý hai khía cạnh sau:

Một là: Uber phải mở một tài khoản tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Tất cả các khoản thu, chi, thanh toán của khách hàng Uber đều phải thông qua tài khoản này

Hai là: Uber phải đặt máy chủ tại Việt Nam. Cần lưu ý sự khác biệt của máy chủ (server) và các máy catcher. Máy chủ phải được hiểu là bao gồm phần cứng (tức là bộ máy) và phần mềm điều khiển các hoạt động của ứng dụng. Nếu xét ở khía cạnh đó, có vẻ như các đại gia công nghệ hầu như chỉ đặt ở Việt Nam máy catcher (bản chất chỉ là phần cứng, có nhiệm vụ lưu trữ. Cái này không có ý nghĩa về mặt quản lý vì bất cứ lúc nào cũng đổi được), mà không phải là máy chủ đúng nghĩa.

Trong ngắn hạn, yêu cầu thứ nhất là bắt buộc phải đáp ứng, vì đó là cơ sở khả thi nhất cho việc xác định doanh thu đối với Uber so với các nguồn lực hiện tại mà Việt Nam đang có. Đối với yêu cầu thứ hai, sẽ hơi khó khăn trong việc thực hiện, cần phải làm theo lộ trình và mang tính tùy chọn. Bởi máy chủ là một tài sản có ý nghĩa lớn đối với các hãng công nghệ như Uber. Đây là một khía cạnh cần cân nhắc. Vì nếu các yêu cầu quá khắt khe, Uber sẽ rời Việt Nam. Đây sẽ là một thiệt thòi cho người dùng và cả cho ngân sách nhà nước.

Cũng có thể dung hòa bằng cách hoặc đặt máy chủ hoặc đặt catcher và ký quỹ nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bên có liên quan.

Sự phát triển công nghệ luôn kéo theo đó là những xáo trộn về kinh doanh. Tuy vậy, sự xáo trộn này là hoàn toàn cần thiết. Các hãng taxi truyền thống đã tồn tại quá lâu, hầu như có rất ít thay đổi mang tính đột phá để nâng cao chất lượng và hạ giá thành.

Tất nhiên, khi thị phần bị đe dọa, các hãng mà đại diện là Hiệp hội Taxi phải phản ứng là chuyện bình thường. Nhưng phản ứng bằng con đường vận động chính sách để cấm cản đối thủ mới cũng không phải là một lựa chọn tốt. Có lẽ các hãng này cũng biết thế, nên tự họ cũng đang xây dựng các ứng dụng nhằm tối ưu hóa chi phí sản xuất của mình. Chỉ có khi đặt trong môi trường cạnh tranh, quyền lợi của người dùng mới được bảo đảm.