Tập đoàn Masan trở thành nhà đầu tư chiến lược của Vissan

Với mức giá đưa ra 126.000 đồng một cổ phiếu, toàn bộ 11,3 triệu cổ phần dành cho nhà đầu tư chiến lược của Vissan đã thuộc về Công ty cổ phần dinh dưỡng nông nghiệp quốc tế Anco (công ty con của Tập đoàn Masan).

Sáng ngày 24/3 tại TP HCM, Công ty TNHH một thành viên Việt Nam kỹ nghệ súc sản (Vissan) đã đấu giá thành công 11,3 triệu cổ phần dành cho nhà đầu tư chiến lược.

Đơn vị đã trả giá cao nhất là Công ty cổ phần dinh dưỡng nông nghiệp quốc tế (Anco) với 126.000 đồng một cổ phiếu. Tiếp đến là Công ty cổ phần Việt-Pháp sản xuất thức ăn gia súc (Proconco) 125.000 đồng và CJ Vietnam là 120.600 đồng.Với mức giá đưa ra vượt trội, toàn bộ 11,3 triệu cổ phiếu thuộc về tay Anco giúp Vissan thu về 1.424 tỷ đồng. Cả Anco lẫn Proconco đều là công ty con của Tập đoàn Masan.

Trước đó, tại buổi đấu giá công khai bán cổ phần lần đầu tiên ra công chúng, Vissan cũng nhận được sự tham gia đông đảo của các nhà đầu tư. Kết phiên đấu giá, giá bình quân của cổ phiếu này là 80.000 đồng, đem về cho Vissan 906,8 tỷ đồng, vượt kỳ vọng trước đó. Mức giá trúng cao nhất đạt 102.000 đồng, tăng 6 lần so với mức giá khởi điểm là 17.000 đồng một cổ phiếu.

Theo phương án cổ phần hóa tại Vissan, Nhà nước nắm giữ 65% vốn, nhà đầu tư chiến lược là 14% (tương đương 11,3 triệu cổ phần), 14% đấu giá công khai, 7% còn lại dành cho cán bộ nhân viên và tổ chức công đoàn.

Vissan là một trong những doanh nghiệp dẫn đầu ngành thực phẩm, chuyên về sản xuất kinh doanh thịt tươi sống, đông lạnh và thực phẩm chế biến từ thịt. Là công ty con của Tổng công ty thương mại Sài gòn – Satra với thương hiệu 45 năm trên thị trường, đơn vị này có 130.000 điểm bán trên cả nước, hơn 1.000 siêu thị, cửa hàng tiện lợi, đồng thời công ty còn xuất khẩu ra nước ngoài. Hằng năm, Vissan đạt tổng doanh thu trung bình 4.500 tỷ đồng và lợi nhuận hơn 150 tỷ, tốc độ tăng trưởng bình quân 10,2%.

Anco là doanh nghiệp thức ăn chăn nuôi được thành lập vào năm 2001 với 2 cổ đông người Việt Nam. Đến năm 2003, công ty này có sự tham gia góp vốn của 3 nhà đầu tư Malaysia với tỷ lệ nắm giữ 61% cổ phần. Năm 2014, Anco đạt tổng công suất sản xuất 750.000 tấn và là đối trọng lớn của CP Việt Nam.

Ông Lê Tùng, Trưởng ban cổ phần hóa, Chủ tịch Hội đồng thành viên Satra cho hay, công ty mong muốn đối tác chiến lược cùng chí hướng đẩy mạnh thương hiệu Vissan, cùng gia tăng giá trị cộng hưởng và đồng hành với công ty trong dài hạn, đồng thời, cam kết không bán cổ phần trong vòng 5 năm. Sắp tới Anco và các nhà đầu tư khác sẽ cùng với Vissan tham gia xây dựng nhà máy giết mổ tại Long An với diện tích 10.000ha, vốn đầu tư 80 triệu USD. Hiện nhà máy đã được khởi công và dự kiến hoàn tất vào năm 2018 với quy mô giết mổ 3.000 con heo một ngày.

Sau 2 phiên đấu giá, Vissan thu về 2.333 tỷ đồng.

Xem thêm: tìm việc làm ngành FMCG

Tiếp tay cho các tài phiệt Mỹ trốn thuế, ngân hàng Thụy Sỹ vừa phải chịu án phạt lên đến 5 tỷ đô

08 tháng trước, công ty Rothschild & Co – một cái tên rất ít người biết nhưng lại rất nhiều banker và các tài phiệt đều biết – đã đóng một khoản phạt lên tới 11,5 triệu USD (cho Bộ Tư Pháp Mỹ).

Lý do? Công ty muốn thoát án trong việc giúp đỡ các tài phiệt Mỹ trốn thuế qua các tài khoản không công bố tại các ngân hàng offshore.

Tuy nhiên, khoản tiền phạt 11,5 triệu USD này của Rothschild chỉ là một con số rất nhỏ so với khoản tiền tổng cộng lên tới 5 tỷ đô mà 80 ngân hàng Thuỵ Sỹ vừa phải chịu (do các án phạt từ phía Mỹ).

Tuy nhiên, chúng ta đang chứng kiến một điều kỳ lạ đang diễn ra trong ngành ngân hàng của cả Thuỵ Sỹ và của cả thế giới.

Rothschild – một trong những tổ chức tài chính lớn nhất trên thế giới – đang lái dòng tiền mà họ quản lý giúp các nhà giàu thế giới – theo hướng ngược lại, giúp đỡ họ “trú ẩn” tài sản của họ ở chính tại… nước Mỹ, qua một công ty quản lý các tài sản ủy thác ở Reno, Nev (thành phố Reno, bang Nevada).

Tạp chí Bloomberg Businessweek đã lấy hình chụp thành phố Reno và “chế” vui lại từ: Thành phố nhỏ lớn nhất thế giới thành “Hầm trú ẩn thuế thấp” lớn nhất thế giới.

Thực tế không phải tới giờ Rothschild mới có ý tưởng với điều này. Thực tế vào tháng 09 năm ngoái, Andrew Penney – một giám đốc điều hành ở Rothchild – đã trình bày ý tưởng về cách các nhà giàu trên thế giới có thể lách thuế, và thoát khỏi việc phải công bố tài sản của họ với chính quyền đất nước họ đang sinh sống.

Ông đưa ra một ví dụ giả định về việc một nhà đầu tư Hong Kong, tới từ Trung Quốc, lo lắng thông tin về tài sản của mình có thể bị tiết lộ với chính quyền. Giải pháp của Penney là chuyển tài sản của Wang – tên vị doanh nhân – vào một công ty trách nhiệm hữu hạn LLC (Limited Liability Company) thuộc sở hữu của một công ty quản lý các tài sản ủy thác (hay công ty tín thác – trust company) ở Nevada.

Cách làm này sẽ không chỉ giúp vị khách hàng khỏi các dò xét từ chính phủ Trung Quốc mà hơn thế vị khách nọ không phải chịu thuế của chính phủ Mỹ.

Sau nhiều năm “chiến đấu” với các quốc gia khác về việc giúp đỡ các nhà giàu Mỹ “trú ẩn” tài sản và tiền của họ ở nước ngoài, các chuyên gia thuế và những nhà làm luật người Mỹ đang nhận ra rằng chính nước Mỹ đang là “Thuỵ Sỹ Mới” hay “hầm trú ẩn mới” cho các nhà giàu.

Scott Cripps, giám đốc điều hành của một công ty quản lý tài sản uỷ thác (trust company) ở Nevada của Rothschild cũng khẳng định, đây là cách làm mới của giới ngân hàng. Theo Cripps, với những khách hàng người Mỹ, việc tách mình khỏi đám đông đua nhau chuyển tài sản ra nước ngoài (thay vào đó chuyển về Nevada) càng giúp họ “trú ẩn” tốt hơn. Với những vị khách hàng giàu có nước ngoài, “tính bảo mật là vô cùng lớn.”

Sự thay đổi lớn (được đề cập tới ở trên) của ngành ngân hàng thế giới là bởi trong những năm gần đây, các bang như Nevada và South Dakota ở Mỹ đang thực hiện các chương trình với mức thuế thấp, tính bảo mật cao qua các điều luật về quản lý tài sản (khá rộng lượng cho những nhà giàu không muốn công khai tài sản).

Cisa Trust – một công ty có trụ sở ở Geneva, Thuỵ Sỹ – chuyên “chăm sóc” các khách hàng giàu có người Mỹ La Tinh đang lên kế hoạch mở rộng hoạt động ở Pierre, South Dakota.

Trident Trust – một trong các công ty cung cấp dịch vụ quản lý tài sản uỷ thác lớn nhất thế giới – cũng vừa mở một công ty tín thác ở Sioux Fall, South Dakota. Chủ tịch của Trident, Alice Rokahr chia sẻ: “Tôi thực sự ngạc nhiên trước số lượng khách hàng yêu cầu những tài khoản bên ngoài Thuỵ Sỹ.”

Nhưng cuối cùng thì đâu mới là điều kiện quyết định, khiến một nguồn tài sản khổng lồ (không muốn được công khai) đang đổ về Mỹ?

Để hiểu về điều này, đầu tiên, chúng ta cần phải tìm hiểu ngược về năm 2010. Khi đó, Mỹ thông qua Đạo luật tuân thủ thuế đối với các tài khoản ở nước ngoài của Hoa Kỳ – The Foreign Account Tax Compliance Act (hay FATCA).

Cụ thể nội dung điều luật này là Hoa Kỳ yêu cầu các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại các nước (TCTD) phải báo cáo thông tin định kì về các tài khoản của tổ chức/cá nhân Hoa Kỳ tại các TCTD.

Trong trường hợp không thực hiện, các ngân hàng nước ngoài sẽ phải đối mặt với các án phạt (penalty). Giờ có lẽ bạn đã hiểu khoản 5 tỷ đô mà các ngân hàng Thuỵ Sỹ đã trả cho Bộ Tư Pháp Mỹ là bởi vì đâu.

Sau đó, tổ chức quốc tế Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD) (với 34 nước thành viên) cũng đã đưa ra những chuẩn về cung cấp thông tin tài khoản và tài sản của các công dân.

Theo đó, thông tin về tài sản của các cá nhân sẽ được chia sẻ với các quốc gia tham gia thoả thuận này. Hiện nay, có hơn 80 quốc gia và vùng miền lãnh thổ đã tham gia.

Tuy nhiên, lúc này, Mỹ cùng các quốc gia khác như Baharain, Nauru (những quốc gia bạn gần như chẳng bao giờ biết đến) lại không tham gia thoả thuận này. Điều này có nghĩa, Mỹ giờ lại là “hầm trú ẩn” an toàn cho các nhà giàu muốn lách thuế.

Doanh nghiệp với mối lo phí bảo hiểm xã hội

Điều 89.2 của luật này quy định từ ngày 1-1-2016 đến ngày 31-12-2017, tiền lương tháng đóng BHXH bao gồm: (1) mức lương; và (2) phụ cấp lương theo quy định của pháp luật lao động được ghi trong hợp đồng lao động (HĐLĐ). Như vậy, mỗi tháng doanh nghiệp phải chi thêm 18% các khoản phụ cấp lương để đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ.

cong_nhan_giay

Mỗi tháng doanh nghiệp phải chi thêm 18% các khoản phụ cấp lương để đóng BHXH bắt buộc cho người lao động

Doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, tất nhiên không muốn gánh thêm chi phí này, nhưng cũng không thể cắt giảm toàn bộ phụ cấp lương đã trả cho NLĐ như trước đây. Theo điều 23.1 và điều 35 của Bộ luật Lao động, doanh nghiệp phải thỏa thuận với NLĐ để sửa đổi, bổ sung HĐLĐ trước khi cắt giảm phụ cấp lương và lẽ thường, không NLĐ nào lại đồng ý với doanh nghiệp trong trường hợp này.

Còn về mặt quản lý nhân sự, nếu không đảm bảo thu nhập của NLĐ tăng lên theo thời gian mà chỉ tìm cách cắt giảm các khoản khác ngoài tiền lương, doanh nghiệp sẽ đứng trước nguy cơ không giữ được NLĐ lâu dài. Tình trạng mất NLĐ với số lượng lớn và thường xuyên trong các doanh nghiệp sản xuất sẽ gây ra khó khăn không nhỏ cho doanh nghiệp trong việc vận hành nhà máy và đảm bảo tiến độ, chất lượng đơn hàng.
Để giảm thiểu phần nào khoản chi phí BHXH phát sinh nhưng vẫn phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, trên thực tế nhiều doanh nghiệp đang vận dụng một trong các cách làm sau:

Chuyển các khoản phụ cấp lương hiện tại thành tiền thưởng

Doanh nghiệp sẽ thỏa thuận với NLĐ để sửa đổi, bổ sung HĐLĐ theo hướng định danh lại các khoản phụ cấp lương thành tiền thưởng vì tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc không bao gồm tiền thưởng theo quy định tại điều 103 của Bộ luật Lao động(1), (lưu ý là các khoản khác như tiền ăn giữa ca, khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại… chỉ chiếm một phần nhỏ trong phần chung “các khoản bổ sung khác mang tính chất chế độ và phúc lợi khác”). NLĐ sẽ dễ dàng đồng ý với đề xuất này bởi thu nhập của NLĐ từ tiền lương vẫn không thay đổi trong khi NLĐ cũng không bị khấu trừ thêm 8% phụ cấp lương để đóng BHXH (trong trường hợp NLĐ được trả lương trước thuế).

Xét câu chữ thì rõ ràng khoản tiền thưởng không phải là phụ cấp lương theo tinh thần của điều 4 Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH và sẽ không được gộp vào tiền lương để làm cơ sở tính tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ, nhưng bản chất của khoản tiền thưởng mới được gọi tên này dường như chưa đúng cả ở quy định pháp luật lẫn nghĩa thông thường.

Cơ bản thì bản chất của tiền thưởng là một khoản thu nhập bổ sung mang tính khuyến khích NLĐ để họ nhiệt tình, có thêm những đóng góp có ích cho doanh nghiệp và NLĐ được nhận tiền thưởng như vậy phải đáp ứng các điều kiện để xứng đáng nhận tiền thưởng hơn những NLĐ khác. Điều 103 của Bộ luật Lao động cũng đã quy định tiền thưởng là khoản tiền mà người sử dụng lao động thưởng cho NLĐ căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh hàng năm và mức độ hoàn thành công việc của NLĐ.

Sẽ là khập khiễng khi xác định ngay từ cuối năm Dương lịch này tất cả NLĐ đều sẽ nhận được hàng tháng khoản tiền thưởng cố định trong suốt năm làm việc tiếp theo dù bản thân doanh nghiệp cũng chưa biết kết quả hoạt động kinh doanh của mình ra sao trong tương lai. Và càng khiên cưỡng hơn nữa khi nhiều doanh nghiệp cơ cấu tiền lương thấp hơn tiền thưởng hàng tháng. Dù vậy, ở phía ngược lại, doanh nghiệp vẫn có thể lập luận rằng tiền thưởng này đã căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và mức độ hoàn thành công việc của NLĐ trong năm vừa qua, nhưng thay vì trả một lần vào cuối năm thì doanh nghiệp chia đều để định kỳ trả khoản tiền thưởng này trong suốt năm làm việc sắp tới của NLĐ.

Cách làm này rất phổ biến nhưng trong quá trình triển khai, nhiều doanh nghiệp quên rằng theo Bộ luật Lao động, quy chế thưởng phải được công bố tại nơi làm việc sau khi tham khảo ý kiến của Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở, phải cụ thể hóa điều kiện được hưởng và mức được hưởng tại một trong các hồ sơ như HĐLĐ hay thoả ước lao động tập thể. Do vậy, nếu chưa thực hiện đầy đủ những việc này, doanh nghiệp vẫn có thể bị xem là chưa tuân thủ quy định và không được chấp nhận loại khoản tiền thưởng định kỳ hàng tháng ra khỏi cách xác định tiền lương tháng dùng làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ. Ngoài ra, khoản tiền thưởng đã trả còn có thể không được ghi nhận là chi phí được trừ theo các quy định thuế thu nhập doanh nghiệp.

Ghi giảm mức lương theo HĐLĐ và trả tiền lương làm thêm giờ bù đắp

Một số doanh nghiệp, phần lớn là doanh nghiệp sản xuất, gia công đang vận dụng điều 21 của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP và điều 3.2 của Thông tư số 23/2015/TT-BLĐTBXH để chia nhỏ tiền lương của NLĐ bao gồm tiền lương làm thêm giờ. Theo đó, tiền lương ghi trong HĐLĐ do doanh nghiệp thỏa thuận với NLĐ sẽ bao gồm mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác, nhưng mức lương không bao gồm khoản tiền trả thêm khi NLĐ làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm. Doanh nghiệp sẽ giải thích và thuyết phục NLĐ ký kết phụ lục sửa đổi, bổ sung HĐLĐ hoặc HĐLĐ mới ghi nhận mức lương NLĐ nhận theo HĐLĐ sẽ thấp hơn mức lương trước đây nhưng không thấp hơn lương tối thiểu vùng, và ngầm hiểu với nhau rằng phần chênh lệch sẽ vẫn được doanh nghiệp trả đủ cho NLĐ dưới một tên gọi khác là tiền lương làm thêm giờ. Như vậy, doanh nghiệp chỉ phải đóng BHXH bắt buộc hàng tháng cho NLĐ theo mức lương bằng hoặc cao hơn chút ít so với lương tối thiểu vùng, chứ không phải đóng trên toàn bộ tiền lương của NLĐ.

Chưa rõ, cơ quan BHXH sẽ có ý kiến như thế nào về việc tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ có bao gồm tiền lương làm thêm giờ hay không, nhưng trước mắt, cách làm này của doanh nghiệp sẽ gặp những khó khăn nhất định trong việc cấu trúc lại hệ thống tính toán tiền lương và các công việc hành chính kéo theo.

Do (số) tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương, tiền công làm việc ban ngày, làm việc trong giờ sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân(2) nên NLĐ sẽ được lợi hơn so với việc phải đóng thuế thu nhập cá nhân trên toàn bộ tiền lương theo HĐLĐ như trước. Tuy nhiên, nếu có tranh chấp với doanh nghiệp sau này, NLĐ sẽ gặp khó khăn trong việc chứng minh tiền lương thực tế của họ.

Về phía doanh nghiệp, nếu áp dụng cách này, sẽ rất vất vả cho các phòng ban nội bộ khi phải xem xét hệ thống chứng từ kế toán nội bộ, cơ cấu lại hệ thống tiền lương và chi trả lương, tiền lương làm thêm giờ cho NLĐ trong toàn bộ doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp sử dụng hàng ngàn lao động sản xuất. Bởi lẽ, doanh nghiệp phải lập bảng kê phản ánh rõ thời gian làm đêm, làm thêm giờ, khoản tiền lương trả thêm do làm đêm, làm thêm giờ đã trả cho NLĐ và phải xuất trình khi cơ quan thuế yêu cầu.

Hơn nữa, với việc tháng nào NLĐ cũng phải làm thêm giờ theo cách này, doanh nghiệp có thể rơi vào trường hợp sử dụng NLĐ làm thêm quá 200 giờ trong một năm hoặc quá 300 giờ trong một năm trong các trường hợp đặc biệt được Chính phủ quy định, tức là đã vi phạm điều 106.2 của Bộ luật Lao động và có thể bị xử phạt lên đến 100 triệu đồng(3).

Nghiêm trọng nhất là việc tách tiền lương làm thêm giờ để giảm số thuế thu nhập cá nhân cho NLĐ có thể bị xem là hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Hậu quả doanh nghiệp phải gánh chịu có khi lớn hơn nhiều lần so với số tiền doanh nghiệp đã không đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ từ việc áp dụng cách làm này.

Kết hợp cả hai cách trên

Để khắc phục những rủi ro pháp lý và sự phức tạp của công tác tiền lương, kế toán trong cách làm thứ hai, nhiều doanh nghiệp đã linh hoạt áp dụng kết hợp hai cách làm trên đây. Sự mềm dẻo này phần nào giúp doanh nghiệp khắc phục được khả năng NLĐ có thể làm quá số giờ làm thêm tối đa theo quy định, không áp dụng đối với bộ phận NLĐ làm văn phòng, đồng thời xem ra cũng có vẻ hợp lý hơn khi xen kẽ tháng trước NLĐ làm thêm giờ, tháng sau NLĐ được thưởng vì đã có thành tích tốt trong tháng trước. Dù vậy, doanh nghiệp chắc chắn không thể né tránh được một thực tế là phải có hệ thống tính toán tiền lương, nhân sự, kế toán rất tốt với đầy đủ các hồ sơ pháp lý, chứng từ chứng minh tính hợp pháp và hợp lý của cách làm mà doanh nghiệp đang thực hiện.

Tuy nhiên, dù đang làm cách nào, tâm lý chung của doanh nghiệp là “vừa làm, vừa lo”.

Luật sư Nguyễn Vân Quỳnh – Cao Thị Hoàng Oanh (*)

(*) Công ty Luật Phước & Partners

(1) Điều 30.3 của Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBHXH

(2) Điều 3.(i) của Thông tư 111/2013/TT-BTC và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP

(3)  Điều 3.1 của Nghị định 88/2015/NĐ-CP

Vay tín chấp – cuộc chơi tất yếu

Năm 2007, khi toàn bộ nhân viên của ngân hàng Techcombank được cấp hạn mức thấu chi tự động (cho vay dựa trên xét mức lương, vị trí của nhân viên) với hạn mức bằng gấp ba lần thu nhập tháng, ít ai trong số họ lại hình dung được rằng, sau tám năm, thị trường cho vay tín chấp lại sôi nổi đến mức khốc liệt như ngày hôm nay.

Thời của vay tín chấp cá nhân

Năm 2015 chứng kiến cuộc đua vô cùng căng thẳng giữa các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính trên mặt trận cho vay tín chấp cá nhân. Tháp phân khúc khách hàng được khai thác triệt để từ các phân khúc cao nhất (nhóm nhà giàu) cho tới phân khúc thấp nhất mà xưa nay, giới ngân hàng vẫn cho là “không có khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng” (những người có thu nhập dưới 4 triệu đồng/tháng).

Với phân khúc cao nhất là Private và Priority – những khách hàng có tiền gửi ngân hàng từ 1 tỉ đồng trở lên, hầu hết ngân hàng đều cấp cho khách hàng hạn mức thấu chi cao lên tới 1-2 tỉ đồng. Với những phân khúc thấp hơn, hạn mức tín chấp được cấp dựa trên thu nhập hàng tháng, phổ biến từ 3-6 tháng lương, cao nhất như VPBank lên tới 10 tháng lương – dành cho cấp bậc quản lý. Dù thực tế giải ngân vay tín chấp thấp hơn 55% so với kế hoạch nhưng ngân hàng này vẫn kiên quyết xác định vay tín chấp là trọng tâm của năm 2016 và đặt ra mục tiêu tổng giải ngân vay tín chấp gấp 4 lần năm trước và tập trung vào các khách hàng tiêu dùng. Các phân khúc được cho là an toàn này hiện chủ yếu do các ngân hàng trong nước chiếm giữ, tiêu biểu như Techcombank, ACB, VPBank, MSB, HSB.

Phân khúc khách hàng thu nhập thấp trở nên “nóng” trong thời gian gần đây khi được sự quan tâm đặc biệt của các công ty cho vay tiêu dùng trong nước. Với mô hình hoạt động linh hoạt, nhanh, đơn giản, một số công ty tài chính đang mở rộng thị phần với tốc độ nhanh chưa từng có. Chỉ trong năm năm, FE credit (thuộc VPBank) đã phát triển được gần 1,6 triệu khách hàng và hiện là đơn vị đóng góp tỷ trọng đáng kể vào lợi nhuận của ngân hàng này. Cuộc đua sẽ tiếp tục khốc liệt khi ngoài các tổ chức quốc tế trước đây (Prudential, Home credit…), các tổ chức trong nước như HDBank, Techcombank, MSB đã bắt đầu vào cuộc.

Trong khi vay tín chấp đang rất phổ biến ở thị trường bán lẻ thì đối với thị trường doanh nghiệp, câu chuyện dường như mới bắt đầu.

Cạnh tranh càng khốc liệt, người tiêu dùng càng có lợi thế. Anh Nhựt – lái taxi của hãng Vinasun tại TPHCM – cho biết, có tới 50% trong số những người bạn làm nghề lái taxi của anh có vay tiêu dùng. Do hầu hết không có tài sản giá trị nên đều vay tín chấp từ ngân hàng để mua xe máy, ti vi… hay những lúc cần tiền gấp. Anh chia sẻ: “Biết là lãi suất cao nhưng còn đỡ áp lực hơn nhiều so với vay nóng bên ngoài. Hơn nữa, thủ tục vay khá đơn giản và được giải quyết rất nhanh. Hy vọng là thời gian tới, có thêm nhiều công ty cho vay, lãi suất vay sẽ giảm bớt”.

Cô Hòa (ở quận Cầu Giấy, Hà Nội – khách hàng Priority của Techcombank dù không hài lòng lắm với mức phí 150.000 đồng/tháng cho dịch vụ thấu chi nhưng “xét về mục đích sử dụng thì cô thấy ổn, lúc nào cô cần tiền đột xuất là có ngay, rất tiện lợi”.

Tín chấp doanh nghiệp nhỏ và vừa – ai là người dũng cảm?

Trong khi vay tín chấp đang rất phổ biến ở thị trường bán lẻ thì đối với thị trường doanh nghiệp, câu chuyện dường như mới bắt đầu và được kỳ vọng là sẽ làm thay đổi tình trạng “con gà – quả trứng” bấy lâu nay.

Công bố của Viện Nhân lực ngân hàng tài chính năm 2015 cho thấy 70% doanh nghiệp nhỏ và vừa không tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Điều này dễ hiểu khi trong số 96% doanh nghiệp là nhỏ và vừa thì gần 70% là doanh nghiệp siêu nhỏ (có dưới 10 lao động). Với phân khúc này, việc cho vay dựa trên tài sản đảm bảo (nhà, xe) là không nhiều, do vậy tín chấp được cho là giải pháp hợp lý nhất. Nhưng liệu các ngân hàng tại Việt Nam đã dám “dũng cảm” cho doanh nghiệp vay tín chấp?

Khảo sát quanh một vòng các ngân hàng, chỉ có hai ngân hàng có loại hình tín chấp này là MSB và VPBank. Là ngân hàng thử nghiệm cho vay tín chấp đầu tiên từ năm 2013, MSB chọn lựa những doanh nghiệp có doanh thu tối thiểu là 20 tỉ đồng/năm (dựa trên báo cáo thuế) và chào mời những phương án tín chấp đa dạng, gồm cả bảo lãnh và LC. Điều đáng nói là dù có mặt sớm nhất trên thị trường tín chấp doanh nghiệp và có mức lãi suất khá cạnh tranh nhưng MSB lại không được biết nhiều về lĩnh vực này do phân khúc họ lựa chọn chưa thực sự rơi đúng vào nhóm siêu nhỏ – nhóm đang khát khao được vay tín chấp nhất.

Là ngân hàng đi sau nhưng VPBank dường như tham vọng hơn so với MSB. Đầu năm 2015, ngân hàng này mới có những khoản giải ngân tín chấp đầu tiên cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngoài việc tuyển dụng nhóm nhân viên chuyên trách về vay tín chấp, VPBank tỏ ra linh hoạt và tiếp cận đúng đối tượng doanh nghiệp siêu nhỏ hơn khi các doanh nghiệp vay được khoanh vùng ở mức doanh thu 5 tỉ đồng/năm. Sang năm 2016, ngân hàng này đã thể hiện sự theo đuổi phân khúc doanh nghiệp siêu nhỏ mạch lạc hơn khi tung ra gói sản phẩm hấp dẫn hơn nữa. Theo đó, doanh nghiệp siêu nhỏ có thể vay thế chấp hoặc tín chấp nhanh, trong đó duyệt tín chấp chỉ trong năm giờ và không cần đỏi hỏi mức doanh thu tối thiểu.

Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), ông Vũ Tiến Lộc, trong một buổi hội thảo đầu tháng 2 đã đề xuất ngân hàng cần đẩy mạnh cho vay tín chấp để giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh.

Theo một lãnh đạo ngân hàng, việc tham gia cho vay tín chấp phân khúc doanh nghiệp siêu nhỏ không chỉ giúp giải bài toán gà – trứng về doanh nghiệp tiếp cận vốn mà còn là hướng đi đột phá trong bối cảnh hầu hết các ngân hàng cứ loanh quanh tiếp cận các doanh nghiệp có tài sản đảm bảo. Quan trọng là khẩu vị rủi ro của từng ngân hàng khác nhau và ai là người dũng cảm!

 

Đơn thuốc kháng sinh liều cao cho ngân hàng

Điều chỉnh giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn của hệ thống ngân hàng từ mức 60% hiện hành về 40%; đồng thời quy định tỷ lệ cấp tín dụng trên tổng vốn huy động áp dụng cho ngân hàng quốc doanh và nửa quốc doanh 90%, của ngân hàng cổ phần 80% là những điểm nhấn đang thu hút sự chú ý của doanh nghiệp cũng như các tổ chức tín dụng về dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 36 về tỷ lệ an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.

Nhằm hạn chế những biến động thanh khoản trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng năm nay được dự báo ở mức 18-20%, cơ quan quản lý đã đi trước với việc hạ tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn chảy vào tín dụng trung, dài hạn.

Nhằm hạn chế những biến động thanh khoản trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng năm nay được dự báo ở mức 18-20%, cơ quan quản lý đã đi trước với việc hạ tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn chảy vào tín dụng trung, dài hạn.

Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến cuối tháng 12-2015 tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn chung của toàn hệ thống ở mức 31%, cụ thể của ngân hàng quốc doanh nơi Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối là 33,36%; của ngân hàng cổ phần 36,9%; của công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính 73,14%; của ngân hàng hợp tác xã 77,93%. Căn cứ vào những số liệu này, việc vượt quá tỷ lệ quy định nằm ở hai đối tượng sau. Thời gian vừa qua, doanh số cho vay của các công ty tài chính tăng rất mạnh, trong đó chủ yếu cho vay tiêu dùng, bao gồm cả cho vay sửa chữa, xây mới nhà cửa. Doanh số của một số công ty tài chính tăng chóng mặt, gấp 1-2 lần so với cùng kỳ năm trước, mở theo chiều rộng hơn chiều sâu để chiếm lĩnh thị phần.

Vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu của các công ty tài chính thường nhỏ, khoảng vài trăm tỉ đồng và họ không có chức năng huy động vốn từ dân cư hoặc doanh nghiệp. Để có vốn cho vay, họ vay ngân hàng kỳ hạn trên một năm. Họ có thể phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu và các tổ chức tín dụng là bên mua. Các ngân hàng không những không gây khó dễ cho các công ty tài chính, ngược lại còn hỗ trợ vì công ty tài chính là công ty con của ngân hàng, phần lớn được ngân hàng góp vốn từ 50% trở lên, có ngân hàng sở hữu 100%. Cung ứng vốn cho công ty tài chính trên một năm, tất nhiên các ngân hàng phải hạch toán đây là tín dụng trung, dài hạn.

Với công ty cho thuê tài chính cũng không khác mấy. Việc đầu tư và cho doanh nghiệp thuê các thiết bị máy móc, dây chuyền sản xuất thông thường có kỳ hạn hàng năm. Công ty cho thuê tài chính không thể vay vốn ngắn hạn ngân hàng, họ phải tìm cách vay trung, dài hạn.

Đến cuối tháng 12-2015, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn chung của toàn hệ thống ở mức 31%, thậm chí còn cách khá xa mức 60% theo quy định hiện hành, vậy tại sao dự thảo sửa đổi bổ sung Thông tư 36 lại phải điều chỉnh xuống 40%? Một trong những lý do chính được nhà điều hành nêu ra là tín dụng bất động sản đang tăng nhanh hơn tín dụng chung.Box phải

Cho dù thế, tỷ lệ 31% chung của toàn hệ thống chưa đến mức báo động, thậm chí còn cách khá xa mức 60%, vậy tại sao dự thảo sửa đổi bổ sung Thông tư 36 lại phải điều chỉnh xuống 40%? Phải chăng số liệu công bố của NHNN được tập hợp từ báo cáo của các ngân hàng và báo cáo chưa chính xác? NHNN chắc hẳn phải có lý do và một trong những lý do chính được nhà điều hành nêu ra là tín dụng bất động sản đang tăng nhanh hơn tín dụng chung.

Vấn đề là, theo một số ngân hàng, rất khó để biết chính xác tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn trên tổng vốn huy động của một tổ chức tín dụng. Trước hết, tỷ lệ này biến thiên hàng ngày do khách hàng gửi tiền vào, rút tiền ra liên tục với sự thay đổi kỳ hạn liên tục. Một mặt ngân hàng mong muốn khách hàng gửi tiền không kỳ hạn để có thể trả lãi suất thấp, giảm giá thành đồng vốn huy động. Mặt khác lại kỳ vọng người dân, doanh nghiệp gửi kỳ hạn dài, 12-15-18 tháng trở lên để chủ động được đầu vào, tính toán kỳ hạn cho vay đầu ra.

Tuy nhiên do sự biến động của các kênh đầu tư hiện tại bất ngờ, ẩn chứa rủi ro nhiều, cơ hội lắm, nên khách hàng đa số chủ động gửi tiết kiệm ngắn hạn (dưới 12 tháng). Sự thăng trầm của giá vàng từ đầu năm đến nay là một thí dụ. Từ chỗ giá vàng trong nước cao hơn giá quốc tế khoảng 3 triệu đồng/lượng, nay giá vàng nội – ngoại đã xóa nhòa chênh lệch, gần ngang bằng nhau. Cho dù cầu về vàng của người dân đã giảm, nhưng ai dám đảm bảo sức cầu vàng nội không trỗi dậy nếu giá vàng thế giới cứ lừng lững đi lên?

Thử nhìn vào một trường hợp điển hình Vietcombank. Báo cáo tài chính hợp nhất quí 4-2015 của Vietcombank cho thấy vốn huy động không kỳ hạn của ngân hàng tại ngày 31-12-2015 chiếm 28% tổng vốn huy động. Số vốn huy động từ tổ chức kinh tế chiếm 44,8%, phần còn lại từ cá nhân, dân cư. Trong 72% vốn huy động có kỳ hạn còn lại, các kỳ hạn ngắn chiếm tỷ trọng lớn. Như vậy, Vietcombank dù muốn hay không, vẫn phải sử dụng một tỷ lệ nhất định vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn.

Có ý kiến nhận định vốn trung, dài hạn không chỉ tập trung vào một lĩnh vực bất động sản, và do những khó khăn trong việc kiểm soát luồng vốn huy động ngắn hạn nhằm hạn chế rủi ro kỳ hạn, có thể dẫn đến những biến động thanh khoản trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng năm nay được dự báo ở mức 18-20%, cơ quan quản lý đã đi trước với việc hạ tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn chảy vào tín dụng trung, dài hạn.

Ý kiến trên đang được thực tế xác nhận. NHNN công bố tỷ lệ cấp tín dụng bình quân trên tổng vốn huy động của các ngân hàng quốc doanh, nửa quốc doanh vào cuối năm ngoái lên tới 97,22%, cao nhất trong vòng năm năm trở lại đây, trong khi của ngân hàng cổ phần chỉ có 78,49%; của ngân hàng liên doanh, nước ngoài còn thấp nữa 62,27%. Một chuyên gia nhận xét không nên vui mừng vì tỷ lệ cho vay/huy động thấp của tổ chức tín dụng cổ phần bởi những ngân hàng cổ phần là “điểm nóng” về tái cơ cấu đang phải dự trữ thanh khoản cho những khoản phải thu, những khoản lãi và phí phải thu tăng vọt. Không có chuyện ngân hàng để tiền “rong chơi” trong xu hướng lãi suất tiết kiệm đang được đẩy lên ở mọi kỳ hạn.

Giờ đây dự thảo sửa đổi Thông tư 36 yêu cầu các ngân hàng quốc doanh và nửa quốc doanh phải kéo tỷ lệ cho vay/huy động xuống 90%. Có hai phương án: hoặc hạ tín dụng, thu hồi nợ nhiều hơn cho vay mới; hoặc nâng tổng vốn huy động. Còn đối với ngân hàng cổ phần, mức nhúc nhích từ 78,49% lên 80% không đáng là bao. Ngân hàng không thể ngưng cấp tín dụng bởi đây là nghiệp vụ sinh lời cao nhất, cho nên cách thức khả thi sẽ là nâng tổng vốn huy động. Cuộc đua huy động vốn mới chỉ bắt đầu!