Vào TPP, lương của người lao động có tăng?

Để cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI trong việc thu hút nguồn lao động chất lượng cao trong thời gian tới, một bước đi tất yếu cho doanh nghiệp nội là cải thiện lương thưởng và chế độ đãi ngộ cho người lao động.

cong_nhan_han_mach_dien_tu

Tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) mở ra cánh cửa lớn cho các doanh nghiệp Việt có thể thâm nhập vào các thị trường lớn của thế giới như Mỹ, Nhật Bản, New Zealand, Australia,…

Tuy nhiên, hiệp định cũng sẽ mang lại những thách thức không nhỏ cho doanh nghiệp, trong đó có tình trạng cạnh tranh gay gắt về nguồn lao động, một khi các doanh nghiệp FDI ồ ạt tràn vào Việt Nam.

Đây vốn lại là những doanh nghiệp vốn có lợi thế rất lớn về chế độ đãi ngộ và lương thưởng.

Một ví dụ điển hình là trưởng hợp của Samsung. Tại Việt Nam, tập đoàn này hiện đang trả lương cho người lao động trung bình khoảng 11 triệu đồng/tháng, công nhân là 6 triệu đồng/tháng.

Mức lương này cao hơn rất nhiều so với con số khoảng 4 triệu đồng/tháng – mức lương bình quân của người lao động Việt Nam theo báo cáo thống kê từ CNN đưa ra hồi đầu năm 2015.

Bên cạnh đó, Samsung còn đưa ra rất nhiều chế độ đãi ngộ khác cho người lao động, mà không phải doanh nghiệp Việt nào cũng có khả năng, như cung cấp hai bữa miễn phí/ngày, ở trong những căn hộ đầy đủ tiện nghi…

Đây là một trong những lý do quan trọng giải thích vì sao doanh nghiệp này luôn được đánh giá là một trong những nơi làm việc lý tưởng tại Việt Nam.

Mặc dù trả lương lao động cao hơn so với mặt bằng, nhưng lợi nhuận hàng năm của Samsung vẫn ở mức “khủng”.

Lãnh đạo Samsung cho biết, năng suất lao động của người Việt Nam bằng 80% năng suất lao động của người Hàn Quốc. Dù họ trả lương cao hơn doanh nghiệp nội nhưng họ vẫn thu đươc nhiều lợi nhuận hơn, vì lương trả cho lao động người Việt chỉ bằng 1/4 của người Hàn Quốc trong khi năng suất chỉ kém hơn có 20%.

Không chỉ Samsung, mà rất nhiều các doanh nghiệp FDI khác cũng đang được hưởng lợi rất lớn từ nguồn lao động giá rẻ tại Việt Nam. Do vậy, để có thể thu hút được nguồn lao động chất lượng cao, doanh nghiệp Viêt, không còn cách nào khác là cần nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.

Trao đổi với phóng viên, GS. TSKH Nguyễn Mại – Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE) cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam nên nghiên cứu khả năng của doanh nghiệp FDI về việc trả lương cao hơn để tạo ra năng suất lao động cao hơn.

“Đây là con đường tất yếu phải đi. Nếu chủ doanh nghiệp “cò kè” về tiền lương, về điều kiện lao động và sinh hoạt của công nhân thì làm sao thu hút được người lao động tự nguyện cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho doanh nghiệp”, ông Mại nhấn mạnh.

Theo đó, người đứng đầu VAFIE cho rằng, tiền lương sẽ được nâng lên nhanh, đời sống của người lao động sẽ được cải thiện nhanh với tiền đề là năng suất lao động phải tăng cao hơn tốc độ tiền lương để vừa có lợi cho người lao động và doanh nghiệp.

Tuy vậy, ông Mại cũng lưu ý, “Tôi không bao giờ nhấn mạnh tiếp tục giữ ưu thế về lao động giá rẻ mà nhấn mạnh ưu thế về tiềm năng của người lao động trong tiếp thu công nghệ và dịch vụ hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao. Điều đó phụ thuộc vào cả một nền giáo dục của đất nước, trong đó có giáo dục nghề nghiệp và đại học cũng như về tư duy của các chủ doanh nghiệp trong việc sử dụng lao động”.

Theo kết quả nghiên cứu mới đây từ Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), nếu gia nhập TPP, Việt Nam sẽ là quốc gia có mức thay đổi GDP lớn nhất tính theo phần trăm; đồng thời cũng là nước đạt mức tăng phúc lợi kinh tế lớn nhất tính theo tỷ lệ thay đổi.

Nhân viên ngân hàng: Được cái tiếng nhưng ‘khổ’ không biết kêu ai

Ai khi nghe thấy nhân viên ngân hàng là thấy ngưỡng mỗ, ao ước với ngành ngân hàng vì chúng ta đều nghĩ trong đầu là làm ngân hàng là ngành chỉ có đếm tiền mà lương cao. Nhưng thực tế không phải như thế, có trong ngành mới biết ngành ngân hàng khổ đến mức nào.

the_tin_dung

Nguyễn Văn Hải, nhân viên thời vụ một ngân hàng tại Hồ Chí Minh, cho biết để trụ được ở vị trí này suốt 7 tháng qua, mỗi tháng anh phải phát hành được 5 thẻ tín dụng mới. Nếu không đủ chỉ tiêu 3 tháng liên tục phải tự viết đơn xin nghỉ.

Riêng tháng 12, chỉ tiêu tăng lên 7 khách hàng mở thẻ tín dụng mới càng khiến Hải chạy “mờ mắt”. Không chỉ vận dụng đủ mối quan hệ từ bạn bè, người thân, anh còn đến các văn phòng cao ốc, trung tâm thương mại chủ động tiếp thị, mời mở thẻ… nhưng không hề dễ. Điều kiện để mở thẻ tín dụng cá nhân với hạn mức từ 20 triệu đồng là khách hàng phải có thu nhập từ 7,2 triệu đồng/tháng trở lên, có hợp đồng lao động, sao kê lương 6 tháng gần nhất, có hộ khẩu TP HCM… “Tìm được khách hàng đã khó, tìm được người đủ điều kiện rồi phải tìm tới tận nơi khách hàng làm, chở họ ra NH nơi nhận lương qua thẻ sao kê, rồi chầu chực lấy thông tin… nói chung là rất khổ” – nhân viên này phân trần.

Chỉ tính riêng bộ phận nhân viên thời vụ như Hải, NH này đã có khoảng 200 người, cộng thêm từ 150 – 200 cộng tác viên phát hành thẻ bên ngoài nên áp lực vô cùng lớn. “Nhiều người nghĩ nhân viên NH lương cao nhưng thực tế làm nhân viên phát hành thẻ như tôi lương tháng chỉ hơn 3 triệu đồng, cộng thêm hoa hồng mỗi thẻ trên 100.000 đồng, tính ra thu nhập chẳng đáng là bao” – Hải tâm sự.

Với nhân viên tín dụng, cuối năm là thời điểm hết sức vất vả vừa phải cho vay, vừa đôn đốc khách hàng trả nợ. Văn Thanh, nhân viên tín dụng tại Hồ Chí Minh một NH quốc doanh, chi nhánh quận Gò Vấp, TP HCM, cho biết từ nay đến hết năm, anh phải giải ngân được 10 tỉ đồng cho vay khách hàng cá nhân, đồng thời phải thu hồi được nợ xấu 5,5 tỉ đồng. “Đây là chỉ tiêu tối thiểu đặt ra cho cán bộ tín dụng cá nhân, còn lương thưởng Tết thì giờ này chưa thấy thông báo gì nhưng cũng chẳng dám nghĩ chi nhánh năm nay làm ăn thua lỗ” – Thanh tâm sự.

Thanh cho rằng chỉ tiêu 10 tỉ đồng với nhân viên tín dụng không lớn nhưng trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, khối NH cổ phần liên tục đưa ra các chính sách lãi suất ưu đãi hấp dẫn, đã lôi kéo không ít khách hàng của các NH quốc doanh. Để đạt được chỉ tiêu, Thanh phải nhờ bạn bè đồng nghiệp giới thiệu khách hàng để, riêng phần thu hồi nợ xấu mới là gian nan nhất. Thanh kể có lần, anh được giao thu hồi khoản vay của một khách hàng ở Bà Rịa – Vũng Tàu đang vướng nợ xấu. Thanh phải lặn lội từ TP HCM xuống Vũng Tàu, “ăn dầm nằm dề” ở đó suốt mấy ngày. “Đòi tiền mà phải năn nỉ khách hàng như con nợ. Cũng may ông khách này thu xếp được khoản tiền và trả được nợ” – cán bộ tín dụng này nói.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, do tín dụng của hệ thống NH từ đầu năm đến nay đạt thấp, nhiều NH thương mại buộc chạy hết tốc lực, bằng nhiều cách để đạt con số tăng trưởng 12%. Thậm chí, chi nhánh, phòng giao dịch NH còn phải ký cam kết giải ngân đạt chỉ tiêu và sau đó đến lượt các NH phải gồng mình ra để tìm kiếm khách hàng, đòi nợ khi mà thời điểm cuối năm chỉ còn đếm từng ngày.

Top 10 nghề có lương cao nhất ở Mỹ năm 2015

Sau đây là danh sách 10 nghề được trả lương cao nhất ở Mỹ theo xếp hạng của CareerCast. Một lần nữa, những nghề liên quan đến chăm sóc y tế lại dẫn đầu.

1. Bác sĩ phẫu thuật

bac si phau thuat

Lương bình quân hàng năm: 352.220 USD, triển vọng tăng trưởng số đầu việc đến năm 2022: 18%

Nghề bác sĩ phẫu thuật một lần nữa chiếm vị trí quán quân trong bảng xếp hạng những nghề được trả lương cao nhất ở Mỹ. Năm ngoái, mức lương trung bình của nghề này là 230.000 USD, nhưng chỉ sau 1 năm, lương đã tăng vọt qua ngưỡng 350.000 USD.

2. Bác sĩ tâm thần

Lương bình quân hàng năm: 181.880 USD, triển vọng tăng trưởng số đầu việc đến năm 2022: 18%

Lương bình quân của bác sỹ tâm thần ở Mỹ năm nay tăng 3.000 USD so với năm ngoái, đưa nghề này lên vị trí số 2 trong bảng xếp hạng.

3. Bác sĩ nội khoa (đa khoa)

bac si chuan doan

Lương bình quân hàng năm: 180.180 USD, triển vọng tăng trưởng số đầu việc đến năm 2022: 18%

Rớt hạng từ vị trí số 2 so với bảng xếp hạng năm ngoái, mức lương bình quân của bác sĩ nội khoa (đa khoa) đã bị giảm mất 7.000 USD.

4. Điều hành doanh nghiệp cấp cao

Lương bình quân hàng năm: 173.320 USD, triển vọng tăng trưởng số đầu việc đến năm 2022: 11%

Giới điều hành doanh nghiệp cấp cao ở Mỹ là những người được trả lương cao nhất nếu không tính đến những nghề liên quan đến chăm sóc y tế.

5. Nha sĩ

Lương bình quân hàng năm: 146.340 USD, triển vọng tăng trưởng số đầu việc đến năm 2022: 16%

Giảm một bậc so với năm ngoái nhưng lương bình quân của các nha sĩ ở Mỹ trong năm 2015 vẫn tăng đáng kể so với 140.000 USD trong năm 2014.

6. Kỹ sư dầu mỏ

ky_su_dau_tho

Lương bình quân hàng năm: 130.050 USD, triển vọng tăng trưởng số đầu việc đến năm 2022: 26%

Tiếp tục duy trì vị trí thứ 6 năm thứ 2 liên tiếp, nghề kỹ sư dầu mỏ có mức lương bình quân hàng năm 130.000 USD. Không giống nhiều nghề y khoa trong tốp đầu, nghề kỹ sư dầu mỏ chỉ yêu cầu bằng cử nhân để theo đuổi sự nghiệp.

7. Bác sĩ chỉnh hình răng

Lương bình quân hàng năm: 129.110 USD, triển vọng tăng trưởng số đầu việc đến năm 2022: 16%

Tụt hạng từ vị trí số 4 trong bảng xếp hạng năm ngoái, lương bình quân của nghề bác sĩ chỉnh răng giảm hơn 20.000 USD nhưng vẫn xấp xỉ 130.000 USD.

8. Nhà khoa học dữ liệu

Lương bình quân hàng năm: 124.150 USD, triển vọng tăng trưởng số đầu việc đến năm 2022: 15%

Lần đầu lọt vào bảng xếp hạng của CareerCast, nghề khoa học dữ liệu đã đẩy 2 nghề bác sĩ chuyên khoa chân và luật sư khỏi top 10.

9. Kiểm soát không lưu

kiem soat khong luu

Lương bình quân hàng năm: 122.340 USD, triển vọng tăng trưởng số đầu việc đến năm 2022: 1%

Tuy tăng hai bậc so với xếp hạng năm ngoái lên vị trí thứ 9, song mức lương của nghề kiểm soát không lưu lại giảm. Năm 2014, mức lương bình quân của nghề kiểm soát không lưu ở Mỹ là 122.530 USD, cao hơn khoảng 200 USD so với mức lương năm 2015.

10. Dược sĩ

Lương bình quân hàng năm: 120.950 USD, triển vọng tăng trưởng số đầu việc đến năm 2022: 14%

Giảm hai bậc so với xếp hạng những nghề được trả lương cao nhất ở Mỹ năm 2014, nghề dược sĩ năm nay có mức lương bình quân hàng năm đạt 120.000 USD. So với năm ngoái, lương của dược sĩ tăng thêm 4.000 USD.

>> Click để Tìm việc làm lương cao

Sapporo Nhật thâu tóm Sapporo Việt như thế nào?

Sapporo Nhật Bản thâu tóm Sapporo Việt không chỉ từ tay Vinataba mà còn từ tay những “người tình chung” là các đại gia bia châu Âu.

“Người tình” bí ẩn chung

Đầu tháng 10, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam (Vinataba) bất ngờ công bố đã chuyển nhượng toàn bộ 29% cổ phần đang nắm giữ tại Công ty TNHH Sapporo Việt Nam (SVL) cho đối tác còn lại trong liên doanh là Công ty Sapporo International Inc. (Nhật Bản). Người ta đặt ra câu hỏi, Sapporo Nhật thâu tóm Sapporo Việt Nam như thế nào?

SVL được thành lập vào năm 2010 dựa trên liên doanh giữa Vinataba và Công ty Sapporo International Inc, để xây dựng một nhà máy sản xuất bia tại Long An. Dự án có vốn điều lệ 39 triệu USD.

Nhìn vào các thông tin này, ai cũng nghĩ SVL chỉ là mối lương duyên giữa hai “người tình” Vinataba và Sapporo International Inc. Nhưng thực tế, không phải ai cũng biết, ngoài Vinataba và Sapporo International Inc, vẫn còn những gương mặt khác từng có mặt trong SVL. Những “người tình” chung đó là các đại gia bia đến từ Anh và Đan Mạch. Đó là Scottish & Newcastle và Carlsberg Brewery A/S.

Sapporo Việt Nam

SVL không phải do Vinataba và Sapporo International Inc. chung tay xây dựng nên. Hai doanh nghiệp đến với nhau sau những thương vụ thâu tóm có giá trị lớn.

Khởi nguồn, SVL chính là Công ty TNHH Kronenbourg Việt Nam. Kronenbourg Việt Nam là một liên doanh 50-50 giữa Vinataba và Tập đoàn Scottish & Newcastle (Vương quốc Anh), một trong những tập đoàn lớn nhất về bia tại Anh.

Cuối năm 2007, Kronenbourg Việt Nam đã khởi công xây dựng nhà máy bia với công suất 150 triệu lít/năm tại tỉnh Long An. Sau khi nhà máy hoàn thành, bia Kronenbourg 1664 sẽ là sản phẩm đầu tiên mà nhà máy đưa vào sản xuất tại thị trường Việt Nam.

Tuy nhiên, khi bia Kronenbourg 1664 chưa kịp chinh phục người tiêu dùng Việt, ông chủ người Anh lẳng lặng ra đi. Thống kê của Công ty tư vấn và đầu tư Avalue Vietnam – công ty chuyên thực hiện việc đánh giá, tái cấu trúc và M&A cho thấy trong năm 2010, có một thương vụ M&A đáng chú ý.

Đó là công ty Sapporo Nhật Bản công bố sẽ mua 65% cổ phần của Kronenbourg Việt Nam. Điều đáng nói, Avalue Vietnam chú thích Kronenbourg Việt Nam là một liên doanh theo tỷ lệ 50-50 giữa Công ty Bia Carlsberg Brewery A/S của Đan Mạch và Vinataba với giá trị 25,35 triệu đô la Mỹ. Theo đó, Carlsberg sẽ chuyển toàn bộ 50% và Vinataba chuyển 15% cổ phần Kronenbourg Việt Nam cho Sapporo.

Như vậy, cái tên Scottish & Newcastle đã không còn góp mặt trong Kronenbourg Việt Nam trước khi Sapporo Nhật Bản thực hiện thâu tóm Sapporo Việt Nam.

Sau khi Sapporo Nhật Bản nắm giữ 65% cổ phần Kronenbourg Việt Nam (Vinataba nắm giữ 35%), Kronenbourg Việt Nam được đổi tên thành Công ty TNHH Sapporo Việt Nam (SVL). SVL “khai sinh” trong năm 2010.

Sapporo Việt Nam mang “quốc tịch” Nhật

Sau khi biến Kronenbourg Việt Nam thành Công ty TNHH Sapporo Việt Nam (SVL), Sapporo đã biến hương vị bia châu Âu thành hương vị bia đậm chất Nhật Bản.

Tại khu vực Đông Nam Á, Sapporo chọn Việt Nam đặt nhà máy sản xuất duy nhất, đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ chính tiềm năng. Sản phẩm bia Sapporo sản xuất tại Việt Nam được xuất khẩu đến 12 quốc gia, vùng lãnh thổ. Và dù ở đâu, khách hàng đều đánh giá bia Sapporo sản xuất ở Việt Nam giống hệt bia Sapporo sản xuất tại Nhật Bản.

Với bia chất lượng cao và các chính sách marketing phù hợp, dù sinh sau đẻ muộn, Sapporo vẫn chen chân được vào phân khúc bia cao cấp, nơi Heineken và bia Sài Gòn đang “làm chủ”. Với thành công này, SVL thậm chí còn đặt kế hoạch tăng trưởng cho năm 2014 là 200%.

Có thể thấy, ngay sau khi SVL ra đời, bia Sapporo đã đậm chất Nhật Bản. Chỉ có điều Sapporo chưa thể mang “quốc tịch Nhật Bản” khi Vinataba vẫn nắm giữ 35% vốn của liên doanh. Tuy nhiên, theo thời gian, tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 29% sau khi Vinataba bán lại 6% vốn cho Sapporo Nhật Bản.

Hiện tại, Sapporo có sức cạnh tranh khá tốt trên thị trường Việt. Tuy nhiên, thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước thoái vốn đầu tư ngoài ngành sản xuất kinh doanh chính, Vinataba đã chuyển nhượng toàn bộ 29% số cổ phần đang nắm giữ tại SVL cho Sapporo International Inc.

“Sau 6 năm tham gia liên doanh,Vinataba đã bảo toàn và chuyển nhượng có lãi phần vốn góp, mặc dù Liên doanh ‎đang trong giai đoạn đầu tư sản xuất, xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường” – Vinataba cho biết.

Kể từ ngày 11/09/2015, Công ty SVL chính thức trở thành Công ty 100% vốn thuộc sở hữu của Sapporo International Inc.. Như vậy, SVL đã hoàn toàn mang “quốc tịch” Nhật Bản.

Giá trị thương vụ này không được Vinataba tiết lộ nhưng theo tờ Nikkei (Nhật), Sapporo Nhật Bản được cho là đã chi 8,28 triệu USD để mua 29% cổ phần SVL từ Vinataba. Trong khi đó, trước đây, Vinataba góp 12,675 triệu USD để nhận 50% vốn Kronenbourg Việt Nam.

Đầu tư kiểu Thế giới di động: Cửa hàng nhỏ + nhiều = Thu tiền to

Từ Thế giới di động tới chuỗi điện máy Xanh và trong tương lai là Thế giới thực phẩm, chiến lược của Thế giới di động luôn có một điểm chung.

Ông Nguyễn Đức Tài, nhà sáng lập của chuỗi bán lẻ này từng phát biểu, đầu tư tại Việt Nam có những đặc thù rất khác, vì vậy không thể cứ sao chép nguyên trạng mô hình của nước ngoài về là có thể thành công.

Công thức thành công của Thế giới di động

Sự khác biệt mà ông Tài nhắc đến, có lẽ dễ thấy nhất là diện tích mỗi địa điểm, một điểm chung trong các chuỗi mà công ty này đã và đang dự dịnh triển khai. Trong khi các siêu thị điện máy tập trung xây dựng theo mô hình đại siêu thị, quy mô lên tới vài nghìn mét vuông và bày bán đầy đủ các loại mặt hàng từ di động đến điện máy, Thế giới di động lại chọn ngách nhỏ hơn.

Chuỗi cửa hàng TGDĐ không bán tập trung vào mặt hàng điện máy, tốn diện tích và tăng trưởng chậm như TV, tủ lạnh, mà tập trung vào nhóm hàng ICT (điện thoại, máy tính bảng, laptop) nhỏ gọn, tốn ít diện tích trưng bày và tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều.

Hệ quả là chi phí đầu tư để mở 1 cửa hàng mới của TGDĐ rất thấp. Ông Vũ Đăng Linh, giám đốc tài chính TGDĐ cho biết, chi phí mở mới một cửa hàng TGDĐ hiện chỉ khoảng 2 – 2,5 tỉ đồng. Mặt hàng ICT lại có sức tăng trưởng trên 20%/năm, trong khi tăng trưởng của hàng điện tử tiêu dùng chỉ là trên 10%.

Chi phí thấp giúp chuỗi cửa hàng này gia tăng số lượng cửa hàng rất nhanh chóng. Nếu năm 2009, chuỗi này có 38 cửa hàng thì chỉ sau 5 năm, số lượng cửa hàng đã tăng gấp 9 lần. Tính tới thời điểm này, chuỗi này đã có tới 465 cửa hàng.

Việc tăng nhanh về số lượng cửa hàng đẩy doanh thu của Thế giới di động nhảy vọt. 8 tháng năm 2015, doanh thu của chuỗi Thế giới di động đạt 12,6 nghìn tỉ đồng, cao nhất trong ngành bán lẻ điện máy Việt Nam. Mô hình của Thế giới di động về sau cũng được một số chuỗi khác vận dụng và gặt hái thành công. Fshop của FPT là một ví dụ. Chỉ sau 2 năm đi vào vận hành, chuỗi này đạt doanh thu trên 5,2 nghìn tỉ trong năm 2014 và tuyên bố bắt đầu có lãi.

“Một ưu thế của mô hình nhỏ đó là với những địa điểm kinh doanh không mang lại kết quả mong muốn, TGDĐ có thể nhanh chóng đóng cửa”, một chuyên gia trong ngành cho biết. Trong khi đó, với những doanh nghiệp theo mô hình đại siêu thị điện máy, việc đóng cửa một trung tâm sẽ có tác động rất lớn.

Điện máy Xanh tiếp bước

Chiến lược quy mô nhỏ, chọn một nhóm mặt hàng để đánh tập trung tiếp tục được TGDĐ áp dụng khi quay lại với hàng điện máy truyền thống. Điện máy Xanh, khi bán TV, tủ lạnh cũng tuân thủ nghiêm ngặt công thức thành công cũ của TGDĐ: Không hướng tới mặt bằng lớn.

Một trung tâm điện máy Xanh sẽ có diện tích rộng chỉ 800m2, trong khi diện tích chuẩn của một đại siêu thị điện máy là 4.000 – 5.000m2 cho diện tích bày bán và tổng diện tích có thể lên tới 10.000m2. Chi phí đầu tư sẽ vào khoảng 50 tỉ đồng. Trong khi ước tính, chi phí trung bình cho một trung tâm sẽ vào khoảng từ 6 – 10 tỉ đồng, thấp hơn rất nhiều so với mô hình truyền thống.

“Chi phí đầu tư cho một trung tâm điện máy Xanh cao hơn từ 3 – 5 lần so với một cửa hàng Thế giới di động, tùy vào kích thước, diện tích từng địa điểm”, ông Trần Kinh Doanh, Tổng giám đốc của TGDĐ cho biết.

Cơ cấu hàng bày bán tại điện máy Xanh là 25% hàng ICT và 75% hàng điện máy tiêu dùng. Tuy nhiên, để phù hợp với diện tích bị co nhỏ lại, trung tâm này định hướng rõ: Không phải cái gì cũng bán mà chỉ tập trung vào nhóm sản phẩm chủ lực, bán tốt nhất.

“90% mặt hàng tại điện máy Xanh sẽ chỉ tập trung vào nhu cầu phổ thông của khách hàng. Chúng tôi loại bỏ các mặt hàng không phổ thông và chỉ tập trung đa dạng hóa nhóm chủ lực”, đại diện chuỗi này cho biết.

Việc thay đổi cơ cấu không chỉ giúp điện máy Xanh tăng doanh số mà còn giảm diện tích trưng bày. Sau khi bỏ tên cũ là dienmay.com để chuyển sang tên điện máy Xanh vào tháng 5 năm nay, chuỗi điện máy này cũng tăng số lượng rất nhanh. Tính tới thời điểm này, chuỗi này có 36 địa điểm. Nếu so với những tên tuổi “gạo cội” cùng ngành điện máy như Nguyễn Kim, Mediamart, HC, Trần Anh,… Điện máy Xanh vụt lên trở thành chuỗi có nhiều trung tâm nhất. Nguyên nhân không chỉ nhờ vào nguồn lực tài chính dồi dào, mà còn đến từ chi phí đầu tư ban đầu thấp hơn rất nhiều so với mô hình truyền thống.

8 tháng đầu năm 2015, chuỗi điện máy Xanh đạt doanh thu 2,4 nghìn tỉ đồng, tăng trưởng 183%. Dù doanh thu còn nhỏ, nhưng tốc độ tăng trưởng của điện máy Xanh so với các doanh nghiệp còn lại trong ngành là khá đáng nể.

Mở ra 500 trung tâm nhỏ mang tới cái lợi lớn hơn rất nhiều so với mở ra vài chục siêu thị lớn. Mục tiêu của TGDĐ năm nay là đạt hơn 23,5 nghìn tỉ đồng doanh thu. Với những kết quả hiện tại, mục tiêu này là khả thi.

Sẽ còn nhiều chuỗi khác nữa…

Tất nhiên, để làm được như Thế giới di động không hề đơn giản. Chiến lược này đòi hỏi kỹ năng quản lý chuỗi cực tốt. Để vận hành trơn tru vài trăm địa điểm bán lẻ không phải là bài toán quản trị mà doanh nghiệp nào ở Việt Nam cũng có thể làm được. Nó cũng cho thấy TGDĐ đã nắm vững tâm lý mua sắm cũng như đặc thù tiêu dùng ở Việt Nam.

Những dự định trong tương lai của Thế giới di động cũng gắn liền với chữ nhỏ. Với tuyên bố chuyển sang lĩnh vực thực phẩm, doanh nghiệp này tuyên bố sẽ ra mắt “Thế giới Thực phẩm với không gian giống siêu thị, chuyên tập trung vào nhóm hàng thực phẩm”. Diện tích của thế giới thực phẩm là 200m2.

Theo một chuyên gia trong ngành bán lẻ siêu thị, mô hình siêu thị thông thường cần diện tích trung bình 800 – 1000m2 để trưng bày đầy đủ các loại mặt hàng. Với diện tích chỉ 200m2, Thế giới thực phẩm sẽ là mô hình siêu thị mini. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu Thế giới thực phẩm cũng sẽ chỉ tập trung vào những mặt hàng thiết yếu với nhu cầu sử dụng lớn.

Với kết quả kinh doanh ấn tượng, Thế giới di động đang ở thời điểm kinh doanh cực thịnh và việc nhảy sang lĩnh vực thực phẩm có thể coi là bước đi mới để tìm động lực phát triển. Theo ông Doanh, quy mô của thị trường hàng tiêu dùng thiết yếu từ 20 – 30 tỉ USD/năm, cao gấp 4 – 5 lần so với hàng điện thoại, điện gia dụng. Mục tiêu được chuỗi này đặt ra là 30 – 50 cửa hàng trong 24 tháng tới.

Lựa chọn một lĩnh vực bán lẻ hoàn toàn mới so với trước đây, nhưng Thế giới di động vẫn chọn cách tiếp cận cũ: Cửa hàng nhỏ + nhiều = Thu tiền to.