Why the Employers Need Job Recruitment Agencies?

Recruitment, human resource, and placement agencies, tries to fill the gap between the employers and job seekers by providing the former with right kind of later. By using experience and knowledge, the recruitment agencies provides better hiring of efficient employees as per the desired needs and requirements of the employees.

man_step_grow_success

For meeting and managing the precise and diverse needs of the employers, the recruitment agencies maintain data of worthy candidates across various domains with education qualifications, skills and experience of the candidates in different fields.

With the aid of huge database of job seekers, the recruitment agencies collect employee data based on the salary, relevant experience and knowledge that best suits the desired needs and requirements of the employees in the most organized manner.

Due to efficient job placement and recruitment agencies, the task of employers is reduced significantly. The employers don’t have to advertise for job description and then shortlist candidates based on various parameters. After shortlisting of candidates, the employers don’t have to conduct interviews and nor he has to negotiate salary with the shortlisted candidates. All of the above mention procedures are systematically handle and managed by recruitment agencies under the supervision of their qualified and skilled job placement professionals.

Without human resource agencies, the employers have to spend a lot of money, time and resource on the whole recruitment procedures. All the cost, time, and resource can be saved if the employers decide to hire some of the reputed recruitment agencies, which have a lot of experience and knowledge of this domain. Apart from this, all hiring, recruitment and selection procedures can be done within the promised time frame and at very less cost.
With industry expertise, the recruitment agencies provide the employers with “right” kind of candidates/job seekers. The expertise and knowledge of diverse industries have helped the placement to meet the diverse requirements of the employers in the most organized manner.

Based on the needs of the employers, the recruitment agencies provide temporary as well as permanent employees to them. Temporary employment may consist of 3 to 6 months contract with the employees to provide their services to the respective employers.

After that, the employers can either continue the job seekers’ job or can discontinue the contract, based on their needs and requirements. It was reported that the employees selected through recruitment agencies have high retention rate.

As one of the Best Recruitment Agencies in Vietnam, some of the recruitment agencies provide its customers with jobs in Oil & Gas, manufacturing, FMCG.

Mức lương trong ngành ngân hàng có còn hấp dẫn?

So với các nước trong vùng, mức lương của nhân viên ngân hàng Việt Nam thấp hơn khoảng 1,5 lần, đạt từ 6,7 triệu đồng – 10,51 triệu đồng

Lương ngân hàng không còn hấp dẫn

Khảo sát của JobStreet.com đối với 1.885 nhân sự đang làm việc tại ngân hàng cho thấy, 66% nhận được mức lương dưới 10 triệu đồng/tháng, khiến 29% nhân sự ngành này cho biết họ muốn chuyển nghề do mức lương thấp hơn so với kỳ vọng.

Trước đó, báo cáo lương công ty này công bố vào tháng 5 cũng cho thấy, mức lương thực tế mà vị trí nhân viên ngành ngân hàng nhận được mỗi tháng chỉ đạt từ 6,7 triệu đồng – 10,51 triệu đồng. So với các nước trong vùng, mức lương của Việt Nam thấp hơn khoảng 1,5 lần. Cụ thể, vị trí nhân viên ngành ngân hàng tại Malaysia nhận được mức lương hơn 11,5 triệu – 16,2 triệu đồng/tháng.

Muc luong trong nganh ngan hang co con hap dan?

Trên thực tế, số liệu cho thấy, nguồn cung nhân lực cho ngành tài chính/ngân hàng đang có xu hướng giảm khi số lượng đơn ứng tuyển trung bình cho một vị trí việc làm năm 2015 giảm khoảng 36% so với năm 2014.

Không còn bị thu hút bởi mức lương, phần lớn các ứng viên tham gia khảo sát đánh giá cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cao hơn những yếu tố khác khi cân nhắc một vị trí việc làm.

Theo đó, 66% nhân sự đang tìm kiếm cơ hội thăng tiến sự nghiệp khi cân nhắc chuyển việc, trong khi chỉ còn 29% quan tâm đến những vị trí có mức lương cao hơn. Định hướng phát triển sự nghiệp cũng là lý do khiến nhân sự cân nhắc rời bỏ ngân hàng khi 53% nguồn nhân lực này cảm thấy thiếu cơ hội phát triển cũng như khó đạt được vị trí mà họ mong muốn.

Nhu cầu tuyển dụng tăng cao

Cung đang có dấu hiệu đi xuống, nhưng cầu lại không hề giảm vào những tháng cuối năm. Khảo sát của công ty này đối với các nhà tuyển dụng ngành Tài chính/Ngân hàng cho thấy, dấu hiệu tích cực khi 83% các doanh nghiệp sẽ tuyển dụng nhiều hơn vào quý 3/2015, chủ yếu tập trung vào phân khúc nhân viên do công ty mở rộng quy mô và một phần để thay thế nhân viên nghỉ việc.

Cán cân lợi thế dần nghiêng nhiều về phía ứng viên hơn, mức độ cạnh tranh để thu hút nhân tài giữa các công ty trong ngành ngày càng mạnh mẽ. Cơ hội phát triển, thăng tiến sự nghiệp… đang là điều người lao động tìm kiếm trong sự nghiệp của họ.

Do đó, “nhà tuyển dụng cần chú trọng hơn đến việc có một chiến lược tổng thể, đa dạng hoá và tối đa hoá hiệu quả các kênh tuyển dụng như đăng tuyển, tìm kiếm hồ sơ ứng viên, quảng bá thương hiệu nhà tuyển dụng, … để thu hút nhân tài tốt nhất”, đại diện đơn vị khảo sát cho biết.

Đặc biệt, nhà tuyển dụng cần biết quảng bá thương hiệu công ty qua chính mẩu tin quảng cáo việc làm để thu hút ứng viên. Mức lương, phúc lợi, mô tả công việc cũng như môi trường làm việc, … bởi đây là những điều khiến ứng viên cân nhắc khi ứng tuyển việc làm.

Khảo sát cũng cho thấy, ứng viên quan tâm nhiều nhất đến cơ hội thăng tiến và phát triển sự nghiệp, tiếp theo đó là danh tiếng công ty, văn hoá doanh nghiệp, môi trường làm việc có tỉ lệ xấp xỉ với những chương trình đào tạo và phát triển cho nhân viên.

Các công ty công nghệ thu hút nhân tài thế nào?

Ở những quốc gia phát triển hay ngay cả Việt Nam, các “đại gia” ngành công nghệ vẫn luôn ra sức xây dựng những chính sách từ chu đáo đến “kỳ quặc” nhất để giữ chân những lập trình viên, chuyên gia an ninh mạng… có tài.>

Thế giới: Chuyện như đùa

Nếu như trong các công ty công nghệ lớn, chuyện nhân viên có những bữa trưa miễn phí, uống bia hay chơi game dường như đã trở thành thông lệ, thì vào đầu năm 2014, Apple và Facebook đã đưa ra một chính sách mới: Chi ra 20.000 USD cho mỗi nhân viên nữ để đông lạnh trứng phục vụ việc tái sinh sản về sau. Trong đó còn bao gồm các lợi ích khác như được tiếp cận các dịch vụ điều trị sinh sản, mang thai hộ hay ngân hàng tinh trùng. Nếu nhân viên có em bé mới sinh, Facebook sẽ cung cấp thêm cho họ 4.000 USD cùng với 4 tháng được nghỉ làm.

dan_ong_dieu_khien_may_tinh

Không chỉ với trẻ em, một số công ty còn cung cấp dịch vụ chăm sóc người già cho bố mẹ của nhân viên, cho nhân viên đi du lịch nước ngoài trong vòng 1 tháng. Đặc biệt hơn, tại Automatic, nhân viên được khuyến khích nghỉ phép từ 2 – 3 tháng sau 5 năm làm việc.

Tuy nhân viên của Epic chỉ có 1 tháng nghỉ phép nhưng Công ty sẽ tài trợ toàn bộ cho một chuyến đi 2 người nếu nhân viên muốn du lịch tới nước họ chưa từng ghé thăm bao giờ.

Việt Nam: Nhà, xe, cổ phiếu và sữa mẹ

Ông Trương Gia Bình – Chủ tịch HĐQT FPT – trong hội nghị ICT Summit 2015 đã cảnh báo: “Thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ thông tin (CNTT) đã ở mức báo động đỏ”. Từ nay đến năm 2020, Việt Nam sẽ thiếu 400.000 nhân lực làm về CNTT, tức mỗi năm Việt Nam thiếu 80.000 người.

Trong khi đó, mỗi năm thị trường chỉ cung cấp 32.000 sinh viên tốt nghiệp ngành CNTT và các ngành có liên quan đến CNTT mà số có thể đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp không nhiều, nhất là những người có khả năng làm việc tại nước ngoài.

Chỉ tính riêng FPT thu hút nhân lực cho các dự án mới về xu hướng SMAC (Social, Mobility, Analytic, Cloud) và IoT (Internet of Things) cũng đã cạn kiệt nguồn cung.

van_phong_nhan_vien_may_t

Để giải bài toán này, ông Bình yêu cầu đưa ra mức lương cho chuyên gia công nghệ ngang bằng với mức lương của lãnh đạo với cam kết “các chuyên gia công nghệ FPT sẽ có nhà, xe mà không cần phải làm lãnh đạo”.
Cụ thể, theo Quy định chế độ đãi ngộ dành cho cán bộ công nghệ cấp tập đoàn, FPT cam kết cán bộ công nghệ được hưởng mức thu nhập tối thiểu 500 triệu đồng/năm và chi 5 tỷ USD cho các dự án nghiên cứu và phát triển. Công ty này hiện cũng đã ban hành và thực hiện Bảng cấu trúc chức danh cán bộ công nghệ.

Biết rằng rất khó để nhân viên hài lòng với mức lương, một số công ty công nghệ như VNG, FPT còn “tung chiêu” giữ chân nhân tài, tạo hấp dẫn bằng cổ phiếu. Tháng 4/2015, FPT phát hành thành công hơn 1,7 triệu cổ phiếu ESOP (Employee Stock Ownership Plan) dành cho các nhân viên xuất sắc.

Khác với FPT, Intel Products Việt Nam, theo chia sẻ của Tổng giám đốc Sherry S. Boger, Công ty hướng tới môi trường làm việc mà mọi nhân viên đều thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau để đạt những kết quả xuất sắc.

Cụ thể, tại Intel có chế độ hỗ trợ cho bà mẹ sau sinh, cho phép nhân viên có thể tạm thời điều chỉnh lịch làm việc trong thời gian đầu khi quay trở lại làm việc. Ngoài các phòng tập thể dục, Công ty còn có phòng dành riêng cho các bà mẹ (Mothers room) để lấy sữa và bảo quản sữa trong thời gian làm việc.

Cuối giờ, nhân viên Intel sẽ đem nguồn dinh dưỡng ngọt ngào ấy về cho bé yêu của mình sau giờ làm việc. Ngoài ra Công ty còn có những chương trình học bổng cho con em nhân viên.

10 quốc gia trả lương cao nhất thế giới

Mức lương thực tế là khoản tiền kiếm được mỗi năm sau khi trừ các khoản thuế và khoản chuyển nhượng, nghĩa là số tiền sẵn có để chi tiêu cho hàng hóa hoặc dịch vụ.

Sau đây là 10 nước mà người lao động được hưởng mức lương thực tế cao nhất. Con số thể hiện mức lương thực tế trung bình này dựa vào kết quả nghiên cứu của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development – OECD), được tính toán cho từng lao động không có con nhỏ.

1. Mỹ

Không có gì nghi ngờ về việc Mỹ là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Mỹ có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, là nhà nhập khẩu lớn nhất nhưng đứng thứ hai về xuất khẩu trên toàn thế giới. Người lao động Mỹ nhận được 41,355 USD hàng năm sau khi 31,6% thuế bị khấu trừ.

Tuy nhiên ở nước Mỹ, nhiều người không có bảo hiểm y tế. Trong thực tế, Mỹ đứng đầu về chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe nhưng đứng cuối về độ bao phủ, chính phủ cũng không hề có trợ cấp thai sản cho người dân.

my

2. Luxembourg

Luxembourg ít nhiều cũng là trung tâm tài chính của châu Âu. Đây là nhà cung cấp chính về thép của toàn châu Âu, thị trường xuất khẩu của Luxembourg bao gồm hóa chất, cao su, máy móc công nghiệp và cả dịch vụ tài chính.

Thu nhập trung bình sau thuế ở đây là 38,951 USD hàng năm, còn mức thuế là 37,7% để cung cấp cho các hoạt động an sinh xã hội.

 

3. Na Uy

Na Uy là một trong những quốc gia giàu có nhất về tài nguyên thiên nhiên bao gồm dầu, thủy điện, đánh bắt cá và khoáng sản. Với mức thuế khoảng 37% thu nhập, Na Uy cũng có một hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn diện và giáo dục bậc đại học cho công dân.

Với số giờ làm việc mỗi tuần trung bình là 33,4 giờ, người lao động nhận được thu nhập thực tế hàng năm là 33,492 USD.

4. Thụy Sĩ

Thụy Sĩ xếp hạng cao trong các yếu tố về sự minh bạch của chính phủ, quyền tự do công dân, chất lượng cuộc sống, khả năng cạnh tranh kinh tế và phát triển con người. Không ngạc nhiên khi nước này đứng thứ 3 trong nghiên cứu về sự hài lòng cuộc sống của OECD.

Lĩnh vực sản xuất của Thụy Sĩ quan trọng và phát triển mạnh mẽ nhất châu Âu. Thụy Sĩ sản xuất vật dụng y tế, dược phẩm, hóa chất chuyên dụng và nhạc cụ. Người Thụy Sĩ có thu nhập hàng năm là 33,419 USD và làm việc khoảng 35 giờ/tuần.

5. Úc

Úc là một trong những nước có nền kinh tế mạnh mẽ nhất thế giới, là nhà xuất khẩu lớn về thực phẩm cũng như dầu và khoáng sản, nhập khẩu tương đối ít. Về sự giàu có bình quân, Úc xếp thứ 2 sau Thụy Sĩ vào năm 2013.

Thu nhập trung bình của người dân ở đây là 31,588 USD/năm với tỷ lệ thuế khoảng 27,7%, dùng để đảm bảo cho công dân có sức khỏe và nền giáo dục tốt. Người Úc làm việc trung bình 36 giờ/tuần.

6. Đức

Đức là nước có nền kinh tế quốc dân quyền lực nhất châu Âu. Tuy nhiên, đây cũng là một quốc gia có tỷ lệ thuế từ thu nhập của công dân cao nhất: 49,8%.

Dù vậy, Đức có hệ thống chăm sóc sức khỏe lâu đời nhất thế giới, người dân được chăm sóc sức khỏe và giáo dục ở tất cả các bậc hoàn toàn miễn phí. Thu nhập thực tế hàng năm của người dân Đức là 31,252 USD.

7. Áo

Đất nước Trung Âu với cảnh quan tuyệt đẹp và lịch sử đầy phiêu lưu này có GDP trung bình đầu người đứng thứ 12 thế giới. Nước Áo có nền công nghiệp phát triển mạnh, bên cạnh đó, phần quan trọng nhất trong nền kinh tế là du lịch quốc tế, chiếm đến 9% GDP.

Người lao động nhận được trung bình 31,173 USD sau thuế – một khoản khá lớn nếu xét đến 49.4% bị mất do thuế thu nhập và các khoản đóng góp an sinh xã hội. Khoản tiền này sẽ chi dùng cho chăm sóc sức khỏe phổ thông và giáo dục đại học.

8. Canada

Canada là hàng xóm phía Bắc của Mỹ, nơi sở hữu trữ lượng dầu mỏ lớn thứ 3 thế giới (chỉ sau Venezuela và A rập Saudi). Đất nước này cũng rất giàu có về nhôm, uranium, vàng, niken, kẽm và vùng đồng bằng của Canada là một trong những nơi sản xuất nông sản quan trọng của toàn thế giới (lúa mì, dầu cải và các loại ngũ cốc khác).

Thu nhập thực tế hàng năm của người Canada trung bình trong khoảng 29,365 USD với tỷ lệ thuế khoảng 31% (chi trả cho chăm sóc sức khỏe và giáo dục cộng đồng). Một tuần làm việc trung bình của người Canada là 36 giờ.

9. Thụy Điển
Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, Vương quốc Scandinavian xinh đẹp này là quốc gia giàu thứ 6 thế giới nếu xét GDP bình quân đầu người.

Thụy Điển là một quốc gia có nền kinh tế hỗn hợp theo định hướng xuất khẩu gỗ, thủy điện và quặng sắt. Điều này tạo nên nền kinh tế chú trọng về ngoại thương. Các ngành kỹ thuật của Thụy Điển chiếm tới 50% sản lượng và xuất khẩu.

Quốc gia này duy trì một hệ thống phúc lợi xã hội của Bắc Âu, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe phổ thông và giáo dục đại học cho công dân. Do đó, mỗi người phải từ bỏ 42,4% thu nhập của họ nhưng trung bình họ vẫn nhận được 29,185 USD mỗi năm.

10. Pháp
Pháp được xếp thứ 7 trong các nền kinh tế lớn nhất thế giới. Để giải thích tại sao GDP bình quân đầu người của Pháp lại thấp hơn của Mỹ, nhà kinh tế học Paul Krugman khẳng định rằng: “Người lao động của Pháp có năng suất lao động xấp xỉ người Mỹ, nhưng người Pháp bị cáo buộc rằng có một tỷ lệ tham gia lao động thấp hơn và khi họ làm việc, họ làm ít thời gian hơn”.

Đó có thể do điều luật làm việc 35 giờ/tuần ban hành năm 1999. Cho dù vậy, người Pháp vẫn nhận được 28,799 USD mỗi năm sau khi trừ các loại thuế (trung bình là 49%). Đây cũng là nước có gánh nặng thuế lớn thứ 2 trong các nước OECD.

phap

Tìm nguồn nhân lực trẻ chất lượng: Không khó!

Được đánh giá là quốc gia có nguồn nhân lực trẻ dồi dào, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh so với nhiều nước khác. Thế nhưng lợi thế ấy không được khai thác triệt để khi mỗi năm có hàng ngàn sinh viên ra trường không có việc làm.

Trang tìm ứng viên mới ra trường thực tập sinh: studentjobs.vn

Thiếu và yếu

Mỗi năm, cả nước có hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp nhưng không phải ai cũng tìm được việc làm. Thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho thấy, năm 2014 có đến 174.000 sinh viên có trình độ đại học trở lên thất nghiệp, 60% sinh viên sau tốt nghiệp 3 tháng mới có việc làm, 750.000 lao động có trình độ đại học, cao đẳng có công việc không phù hợp với ngành nghề được đào tạo.

Sinh viên tốt nghiệp

Một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ thất nghiệp cao là việc chọn bậc học của học sinh trung học phổ thông đang mất cân bằng. Số liệu từ Trung tâm Dự báo về nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM đã minh chứng điều này. Trong 100 học sinh tốt nghiệp cấp 3 có đến 88 em muốn vào đại học, 8 em muốn vào cao đẳng và chỉ có 4 em muốn học hệ trung cấp.

Các bạn trẻ đều muốn chen chân vào đại học, cao đẳng mà không biết rằng doanh nghiệp (DN) tuyển dụng rất nhiều nhóm chưa qua đào tạo như công nhân, lao động phổ thông.

Đó là chưa kể có đến 27% sinh viên ra trường không xin được việc do ngành học không phù hợp với thị trường hoặc không chấp nhận làm việc trái ngành nghề được đào tạo, số khác lại không tìm được nhà tuyển dụng phù hợp… “Điều này cho thấy sự không khớp nhau giữa nơi tuyển dụngứng viên

Điều đáng buồn là gần như hầu hết số sinh viên tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp đều phải đào tạo lại. Ông Alex Boome – đại diện Quỹ Hinrich Foundation – đưa ra thực trạng chua chát về những người không thất nghiệp: có đến 94% sinh viên ra trường phải đào tạo lại và 96% nói họ sẵn sàng cho công việc nhưng nhà tuyển dụng nhận thấy chỉ có 11% trong số đó thật sự sẵn sàng.

Hợp tác đào tạo

Chia sẻ tại buổi ăn trưa do Câu lạc bộ Doanh nghiệp dẫn đầu (LBC) tổ chức, GS. Dương Nguyên Vũ – Giám đốc Trung tâm John von Neumann, Đại học Quốc gia TP.HCM, tỏ ra rất bức xúc khi nghe DN nói muốn sử dụng sinh viên thì phải đào tạo lại. Vì chính đại học mới là nơi đào tạo nhân lực cho xã hội chứ không thể phải để xã hội đào tạo lại. Điều khiến ông Vũ bức xúc hơn là hiện nay, DN coi sinh viên như công cụ hơn là đối tác để đào tạo.

“Nên coi đây là trách nhiệm chung của xã hội thì chất lượng nguồn nhân lực mới tốt hơn. Hơn nữa, đây chính là môi trường để DN tiếp cận sinh viên giỏi. Và muốn làm cho Việt Nam khá hơn, các DN phải ngồi lại với nhau, chia sẻ phương thức đào tạo con người như nhiệm vụ của mình đối với xã hội”, GS. Dương Nguyên Vũ nói.
Tìm và bổ sung nguồn nhân lực trẻ cho DN là yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay, nhưng làm thế nào để nguồn nhân lực ấy đáp ứng được yêu cầu của DN là câu hỏi khó. Vì trên thực tế, có sự “đứt gãy” giữa DN và trường đại học.

Ông Nguyễn Thế Hà – Giám đốc Công ty Cơ khí Bùi Văn Ngọ cho rằng, DN phải có nhiệm vụ giúp ngành giáo dục – đào tạo. “Phải có một thế hệ thầy chiến lược, trò chiến lược mới có thể có được thế hệ DN mới phục vụ đất nước. Lính mới thì cần phải có lính cũ kèm cặp. Thương trường là trường đại học lớn, làm sao để ươm được mầm mới có thể phát triển”.

Cùng quan điểm này, bà Bùi Trân Phượng – Hiệu trưởng Trường Đại học Hoa Sen, cho rằng: “Mối quan hệ giữa DN và trường đại học hay doanh nhân với trí thức là mối quan hệ sống còn. Nếu nơi đào tạo con người và nơi sử dụng con người không gắn bó chặt chẽ với nhau thì việc có được nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu sẽ còn khó dài dài”.

Theo bà Trân Phượng, cả DN và trường học đều phải hiểu họ cần nhau, phải hợp tác cùng nhau mới mong đào tạo được nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu thực tế. Nhận thức được điều này nên những năm qua, Trường Đại học Hoa Sen đã hợp tác với Quỹ Hinrich Foundation đào tạo nguồn nhân lực sát với yêu cầu của DN.

Bằng các học bổng do DN cung cấp, sinh viên được thực tập tại DN và sau khi ra trường sẽ về làm cho DN. Việc hợp tác này tạo ra những nguồn lực cho DN Việt Nam khi phát triển ở các nước trong khu vực Đông Nam Á như Lào, Campuchia, Myanmar… Mô hình liên kết với các trường đại học – Hinrich Foundation – DN giúp Hinrich Foundation thành công.

Trong khi đó, để tìm nguồn cung đáp ứng tốt yêu cầu của các đối tác, Headhunt Vietnam đã xây dựng quy trình tuyển dụng khá nghiêm ngặt: tuyển dụng, thực tập, đánh giá, phỏng vấn tuyển dụng, thử việc và tuyển dụng chính thức. Với quy trình này, có đến 70% thực tập sinh do Headhunt Vietnam cung ứng đã được DN tuyển dụng.

Công ty Namilux – một trong những DN chuyên sản xuất bếp gas của Việt Nam lại đào tạo theo cách riêng khá thú vị. Ông Nguyễn Mạnh Dũng – Tổng giám đốc Namilux cho biết, tại Công ty luôn có một nhóm khoảng 10 công nhân lành nghề làm nòng cốt để hướng dẫn những người khác. Nhưng điều thú vị là những người hướng dẫn này được chọn lựa không dựa trên trình độ học vấn mà căn cứ vào kinh nghiệm làm việc. Không chỉ vậy, để có người giỏi, Namilux còn liên kết với đối tác Nhật tổ chức các khóa học do chính các kỹ sư Nhật đứng lớp.

Việc làm cho sinh viên mới ra trường phục vụ cho doanh nghiệp