Author Archives: Hung Dao

Câu chuyện Vinfast: Từ tốt đến vĩ đại…

“Vinfast” và “tự hào” là hai từ khóa nổi bật trên truyền thông nước nhà trong những ngày qua, nhân sự kiện ra mắt hai mẫu xe đầu tiên của nhà sản xuất ô tô thuộc Vingroup.

Một chiến dịch truyền thông bài bản ở mức tốt đã thu hút được sự chú ý của mọi tầng lớp công chúng, nhưng để trở thành “vĩ đại”, thương hiệu xe nội địa này cần phải chứng minh được sự đúng đắn trong chiến lược đầu tư của mình bằng độ dài danh sách đơn đặt hàng từ tháng quý 3 năm 2019.

Bước khởi đầu tưng bừng

Kỷ lục hơn một triệu người xem livestream về sự kiện là một con số mơ ước với nhiều thương hiệu trên thế giới, không chỉ riêng ở Việt Nam. Các thống kê về số lượng bài báo quốc tế và Việt Nam, lượt nhắc đến trong các cuộc thảo luận trên mạng xã hội về sự kiện ra mắt Vinfast chắc chắn đã xô đổ mọi kỷ lục “talking about” trước đó.

Việc chọn địa điểm ra mắt xe ở một triển lãm ngành danh tiếng như Paris Motor Show để làm điểm ánh xạ thông tin là một quyết định chiến lược tốt. Lượng thông tin bài vở từ nước ngoài truyền về và qua con mắt của nhà báo quốc tế sẽ tạo được sự chú ý đặc biệt và lòng tin của công chúng.

Vinfast đã có được một chiến dịch truyền thông bài bản ở mức tốt. Nhưng… Ảnh: VinFast.

Kế hoạch truyền thông cũng được triển khai tốt khi cân bằng được 3 kênh truyền thông chính: truyền thông tự có (website, fanpage, hệ sinh thái truyền thông tập đoàn, cán bộ nhân viên), truyền thông trả tiền (trong và ngoài nước, truyền hình trực tiếp trên các kênh lớn), truyền thông tự lan tỏa (người đến dự triển lãm, người quan tâm, người trong giới và cư dân mạng nói chung).

Có thể nhìn thấy một sự cân bằng giữa truyền thông chính thống (báo hình, báo tiếng, báo mạng, báo in) với truyền thông mạng xã hội (người có ảnh hưởng chuyên môn, người nổi tiếng, facebook, zalo,…).

Chọn danh thủ David Beckham và hoa hậu vừa lên ngôi Trần Tiểu Vy cũng cho thấy sự nhanh nhạy và nắm bắt tâm lý thị trường tốt của những người triển khai chiến dịch.

Sự hiện diện của các diễn viên múa với tre cũng thu hút được sự chú ý đặc biệt của cánh báo chí quốc tế. Chiến thuật dùng sự kiện (event) để tạo thảo luận, tạo danh tiếng và khởi đầu xây dựng hình ảnh và định vị thương hiệu cũng tỏ ra có hiệu quả trong giai đoạn thu hút sự chú ý của thương hiệu (mô hình AIDA truyền thống).

Bước khởi đầu tưng bừng của Vinfast.

Chất Việt trong thương hiệu Vinfast là gì?

Danh họa Picasso đã từng nói “good artists copy, great artists steal” – Nghệ sỹ giỏi thì sao chép, nghệ sỹ thiên tài thì đi thó. Ông này đã “thó” cách tả mặt người qua những khối lập phương theo kiểu mặt nạ châu Phi và sáng lập ra trường phái lập thể. Thiên tài Steve Jobs của Apple đã “thó” sự phù phiếm nhưng cuốn hút của thời trang, sự tiện lợi và di động mọi nơi mọi lúc của Sony Walkman và sự toàn năng của máy tính cá nhân để “nén” vào chiếc Iphone. Thành công không phải lúc nào cũng cần đến từ sự sáng tạo mà còn đến từ sự tỉ mẩn và nghiêm cẩn trong sao chép.

Trên thế giới, doanh nhân Lee Kun Hee của Samsung đã tham khảo mô hình của 12 tập đoàn lớn trên thế giới để học theo và đưa cái tinh túy vào áp dụng ở tập đoàn mình vào thời điểm ông tiếp quản từ cha. Hàn Quốc học cách làm phim và pop music từ Mỹ, sự nghiêm cẩn và khắc nghiệt của showbiz Nhật và sự bảo hộ sản phẩm văn hóa nội địa từ người Pháp để làm nên những siêu phẩm Kpop Kmovie như ngày nay. Ngay cả nền công nghiệp ô tô của các nước châu Á cũng không phải được sáng tạo từ hư vô. Picasso từng nói hãy copy, copy, copy mãi, đến bao giờ copy hỏng, thì bạn tạo ra cái gì đó của riêng mình.

Theo quan điểm xây dựng thương hiệu hiện đại, ngoài các yếu tố về chức năng cơ bản của sản phẩm (như ô tô là để đi, ô tô thì phải an toàn,…) thì thương hiệu là giá trị mang lại cho khách hàng, gần với hình ảnh của khách hàng mong muốn thể hiện với xã hội và gần với giá trị mà chính khách hàng tin tưởng vào. Do đó, các bộ phận của một sản phẩm đến từ đâu không còn giữ yếu tố quan trọng nữa.

Chất Mỹ trong điện thoại Iphone là thiết kế, là chất lượng của hệ điều hành, là dòng chữ designed in California chứ không nhất thiết là mặt kính, viền vỏ hay chất liệu phải do người Mỹ làm. Đi trên một chiếc cầu trên đất Việt Nam, người ta không đặt câu hỏi thép đến từ đâu hay xi măng đến từ nước nào, mà vẫn gọi đó là cây cầu của Việt Nam.

Chất Việt Nam đến từ nhà đầu tư, từ tầm nhìn, từ cam kết chất lượng mang lại và giá trị mang đến cho khách hàng.

Có thể nói Vinfast đã sáng suốt khi đưa ra một trong các thông điệp lần này là Tự hào Việt Nam. Đây là câu trả lời cho giấc mơ xe của người Việt. Ba mươi năm sau mở cửa, thế hệ doanh nhân Việt đời đầu đã có người dám chơi một ván cờ lớn như vậy trên thị trường quốc tế.

Con đường đến vĩ đại

Tuy nhiên, khoảng cách từ Tốt đến Vĩ đại là một thử thách mà thương hiệu non trẻ này phải đối mặt. Lòng tự hào, sự chia sẻ, đồng cảm của cộng đồng không đồng nghĩa với hành động rút hầu bao của người mua thực sự. Ngoài hình ảnh chiếc xe mẫu, người mua cần biết chất lượng vận hành, hệ thống bảo hành, bảo hiểm, sửa chữa, thay thế, thị trường phái sinh sẽ hoạt động như thế nào.

Ngoài ý nghĩa một phương tiện đi lại, chiếc ô tô còn là vật đánh dấu địa vị trong xã hội của chủ nhân chiếc xe, một phương tiện kiếm sống, một thương vụ đầu tư. Đây chính là những câu hỏi cần có câu trả lời qua truyền thông trong thời gian tới.

Chiến dịch truyền thông hiện tại đang khuyết đi một yếu tố quan trọng đó là một tagline định vị cho toàn bộ thương hiệu. Thông điệp dễ nhớ hiện nay đang là: Thương hiệu Việt, công nghệ Đức, thiết kế Ý, giá Nhật hay giá Việt thì còn là một ẩn số.

Sau màn ra mắt tưng bừng, câu chuyện thành công của Vinfast vẫn ở thì tương lai… Ảnh: Internet.

Câu hỏi lớn trong thời gian tới chính là làm thế nào để “thổi hồn” cho thương hiệu này.

Câu hỏi thứ hai chính là bài toán về định vị phân khúc. Vinfast sẽ bán xe bình dân với chất lượng vượt trội để đáp ứng nhu cầu của lớp trung lưu đang ngày càng đông đảo và giải bài toán về giá bán và thói quen của khách hàng. Hay Vinfast sẽ bán xe cao cấp dành cho tầng lớp trên và giải bài toán về đẳng cấp, hình ảnh thương hiệu và đối mặt với những người đang bán công nghệ cho chính mình?

Câu hỏi thứ ba là Vinfast sẽ vận hành tuyến tính như các nhà sản xuất hiện nay khi chạy theo quỹ đạo cổ điển là sản xuất – bán – sản xuất hay sẽ tạo ra một platformgiá trị để cùng thịnh vượng theo nguyên tắc của nền kinh tế chia sẻ, dựa trên hệ sinh thái của mình, cái mà các đối thủ không thể nào có được (?).

Hy vọng sẽ có một thương hiệu Việt đủ mạnh để cạnh tranh với các thương hiệu lớn của thế giới. Hy vọng thương hiệu mới này của Vingroup cũng sẽ tạo ra một cú hích mạnh cho thị trường ô tô xe máy và để làm ra một niềm tự hào mới thực sự cho Việt Nam.

Nguyễn Đình Thành

Các cấp độ làm thương hiệu

Thương hiệu phải bắt nguồn từ sản phẩm. Một sản phẩm tốt là nền tảng quan trọng nhất để đầu tư ngân sách & trí tuệ cho xây dựng thương hiệu.

Trước đây, ba mẹ em có kinh doanh 1 quán chè. Đúng nghĩa bán chè để kiếm sống vì sự tiện lợi, cái gì cũng bán hòng khách đến tiện gì ăn nấy, lúc ấy khách chủ yếu là khách lâu năm (quán chè có từ 1987), nhưng ngày càng ít dần, hoàn toàn ko có giới trẻ đến ăn.

Khi em về và quyết định cải tổ lại quán chè, em bắt đầu định hướng làm thương hiệu với tên tuổi rõ ràng, concept rõ ràng, có thiết kế có nội dung, các món được tập trung, bỏ bớt các món không đem lại doanh thu cao.

Doanh thu tăng gấp đôi và khách hàng mới xuất hiện nhiều hơn, khách hàng là giới trẻ đến cũng nhiều. Đấy, thực tế nhà em cho thấy, dù là 1 cửa hàng thức ăn vỉa hè hay đường phố nếu làm thương hiệu vẫn hơn ạ. Khi đã có thương hiệu rồi thì Ít nhất khi bị thay đổi địa điểm sẽ vẫn giữ được lượng khách hàng cũ của mình.

Đào Trang
Sài Gòn, 2018

Câu chuyện trên phản ánh một góc của thực trạng “làm thương hiệu” của các doanh nghiệp. Sau gần 10 năm với nghề chuyên sâu tư vấn Chiến lược thương hiệu & nhận diện thương hiệu (đặt tên thương hiệu, viết slogan, thiết kế logo), tôi xin trình bày quan điểm cá nhân về đề tài này như sau.

Thương hiệu phải bắt nguồn từ sản phẩm. Một sản phẩm tốt là nền tảng quan trọng nhất để đầu tư ngân sách & trí tuệ cho xây dựng thương hiệu. Bất cứ ngành nghề nào, quy mô nào & hình thức khởi nghiệp nào, sản phẩm luôn là đầu câu chuyện. Truyền thông quảng cáo hay đến mấy cũng không thể thay thế cho một sản phẩm tồi. Tôi chưa bao giờ thay đổi quan điểm này.

Tuy nhiên một sản phẩm tốt không phải khi nào cũng có được thương hiệu tốt. Nguyên lý brand is perceived by customers – thương hiệu được cảm nhận bởi khách hàng sẽ không bao giờ thay đổi, cho dù thế giới chuyển từ cách mạng 1.0, 4.0 hay n.0.

Ba cấp độ làm thương hiệu sau đây sẽ mang lại các hiệu quả hình ảnh thương hiệu, theo đó là giá trị thương hiệu khác nhau. Một lưu ý quan trọng rằng các doanh nghiệp đạt ba cấp độ này đều có mẫu số chung là đều có chất lượng sản phẩm tốt. Nhưng chi phí & mức độ lan toả thương hiệu của họ khác nhau do cách làm và điểm xuất phát khác nhau.

Cấp độ 1

Chỉ lo sản xuất ra sản phẩm thật tốt & danh tiếng đến từ hữu xạ tự nhiên hương. Nguồn lực tài chính, con người tập trung vào sản phẩm, không quan tâm điều gì khác.

Ta mở quán chè. Cốc chè của ta phải ngon hơn, khác lạ hơn, độc đáo về hương vị hơn quán đầu ngõ. Nếu không, ta chỉ bán được cho mấy nhà hàng xóm bên cạnh là cùng.

Khi sản phẩm đã tốt, khách hàng cũ chính là những marketers hiệu quả nhất để lan toả tên tuổi. Trong trường hợp này, chất lượng sản phẩm tốt chính là một cách “làm thương hiệu” rất hữu hiệu. Khi cạnh tranh chưa căng thẳng, thị trường đang mới, khách hàng chưa nhiều lựa chọn thì doanh nghiệp sống khoẻ dù chẳng đầu tư quảng cáo truyền thông.

Vấn đề gặp phải của nhóm này đa số giống nhau một điểm như sau.

Bị đối thủ vượt lên chỉ vì tụt hậu về hoạt động marketing. Điều đáng nói là đối thủ có thể không hơn về sản phẩm, chỉ hơn về cách thức quảng bá về sản phẩm. Tôi xin lấy ví dụ về dự án tư vấn cho một doanh nghiệp Việt khá lâu năm trong ngành sản xuất sơn gia dụng. Ông chủ tịch đã ngậm ngùi nói rằng tuy chất lượng sơn của ông không hề thua kém so với các nhãn sơn nước ngoài như Nippon, Dulux hay My Kolor, nhưng giá luôn thua thiệt vì họ làm quảng cáo hấp dẫn hơn. Các đại lý sơn nói với ông rằng người tiêu dùng quan niệm chất lượng sơn tốt xấu cảm tính lắm, họ không phải là những chuyên gia thẩm định.

Đến sản phẩm mang đậm tính chất kỹ thuật như sơn còn như vậy, chúng ta sẽ hình dung được sản phẩm như chai nước khoáng, lon nước ngọt… vốn na ná nhau về chất lượng sẽ bị chi phối về marketing như thế nào. Marketing vốn là cuộc chiến về cảm nhận.

Truyền miệng không thể một mình thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ truyền tải thông điệp của Starbucks được nữa. Chừng nào chúng tôi không nói rõ mình đại diện cho cái gì, sẽ còn chỗ cho những hoài nghi (CEO của Starbucks).

Cấp độ 2

Làm thương hiệu chất thực sự, nhưng kinh doanh đi trước, thương hiệu theo sau; không chạy song mã từ đầu.

Các doanh nghiệp này tập trung vào kinh doanh một thời gian dài, sau khi thành công rồi mới quay lại chuẩn hoá về thương hiệu.

“Khi em về và quyết định cải tổ lại quán chè, em bắt đầu định hướng làm thương hiệu với tên tuổi rõ ràng, concept rõ ràng, có thiết kế có nội dung, các món được tập trung, bỏ bớt các món không đem lại doanh thu cao”.

Có nhiều doanh nghiệp quy mô lớn hơn nhiều cũng làm tương tự thế này. Làm, sai, điều chỉnh. Tái cấu trúc cơ cấu sản phẩm, ưu tiên nhóm khách hàng mục tiêu. Thu hẹp để mở rộng. Tôi hay gặp và nghe anh chị doanh nghiệp tâm sự: tôi chẳng biết gì về thương hiệu đâu, cứ thay đổi tốt hơn để bán nhiều hàng hơn thôi.

Thực ra họ đang branding khá bền vững – thương hiệu lấy nền tảng kinh doanh làm lõi. Tập trung ưu tiên nhóm khách hàng mục tiêu với nhóm sản phẩm chiến lược. Các chuyên gia Tây ta gọi đó là Brand positioning – định vị thương hiệu.

Khách hàng của RMA là nhóm doanh nghiệp này khá đông: FPT, Sunhouse, Nguyễn Kim, Minh Long, Kids Plaza, Red Sun, Vodka Men, La Siesta, Thaco Trường Hải… đều là những doanh nghiệp chuyên nghiệp, chỉn chu sản phẩm và các founders có tiếng về tâm huyết và tài năng.

Cấp độ 3

Làm chuẩn từ gốc & biết rõ mục đích, phương pháp ngay từ khi khởi nghiệp.

Chủ doanh nghiệp có chiến lược định vị thương hiệu rõ ràng, chuẩn quốc tế (tạm gọi như vậy khi các phương pháp áp dụng giống với đa số các thương hiệu ở Mỹ, Âu áp dụng). Áp dụng ngay từ đầu song song cùng lúc triển khai chiến lược kinh doanh; các mục tiêu và công cụ của thương hiệu bám rễ vào mục tiêu kinh doanh, góp phần hiện thực hoá các mục tiêu này. Các kế hoạch tiếp thị mang tính tác nghiệp (quảng cáo, Pr, content, event, digital performance) đều bám chặt vào big idea (ý tưởng lớn) chiến lược định vị thương hiệu đã chỉ ra trước đó.

Cách làm này có mấy ưu điểm rõ ràng sau:

  • Nội bộ tổ chức từ lãnh đạo đến các bộ phận chức năng (nhất là phòng marketing) hiểu rõ con đường đi từng giai đoạn của lộ trình xây dựng thương hiệu.
  • Không có những hiểu lầm, tranh cãi nội bộ về cách thức & mục tiêu triển khai.
  • Mọi hoạt động tác nghiệp đều xoay quanh một big idea lớn về hình ảnh thương hiệu cần đạt tới.

Các doanh nghiệp cấp độ 3 team RMA đã triển khai: VietJetAir, khu đô thị Sala, Kangaroo, Karofi, dự án biệt thự sinh thái Casamia ở Hội An, Vntrip, Tôm Bắc Cực, yến sào Phú Yên… lớn bé đủ cả.

Cả 3 cấp độ branding trên khác nhau về điểm xuất phát và hiệu quả. Giống nhau về phương châm hành động – lấy sản phẩm & năng lực lõi của doanh nghiệp làm gốc. Sự nghiêm túc của doanh nghiệp cho ra sản phẩm tốt cho xã hội. Cách làm thương hiệu bài bản kết hợp một sản phẩm tốt sẽ sản sinh ra những thương hiệu mạnh, thậm chí một lovemark cho xã hội, cho địa phương, cho quốc gia. Những quốc gia phát triển luôn có những thương hiệu mạnh mang tính toàn cầu, những thương hiệu có hàm lượng brand equity (giá trị thương hiệu) nghiêng về giá trị vô hình lớn hơn tỷ lệ giá trị chức năng hữu hình.

Nokia đã trở lạ

Nokia đã bất ngờ lật đổ hàng loạt đối thủ để giành lấy ngôi vị số 1 tại Việt Nam.

Nokia nhanh chóng qua mặt hàng loạt đối thủ để giành lấy ngôi vương, chiếm hơn 25% thị phần, theo số liệu công bố của GfK, trong 7 tháng đầu năm 2018.

Trở lại đường đua

Đây là kết quả bất ngờ cho thị trường. Bởi lâu nay, người tiêu dùng vẫn cho rằng, điện thoại di động là cuộc chơi cơ trên của các hãng như Samsung, Oppo, Apple, LG, Huawei, Xiaomi… Nhưng với những ai quan sát thị trường nhiều năm qua thì Nokia đã âm thầm trở lại.

Cuối quý III năm ngoái, báo cáo nghiên cứu của IDC Indochina chỉ ra, Nokia chỉ đứng sau Samsung, Oppo về thị phần điện thoại di động ở Việt Nam. Nokia trở thành tên tuổi đầu tiên trong số các ông trùm một thời (Motorola, BlackBerry…) đã có một cuộc trỗi dậy ngoạn mục.

Giới phân tích vẫn ngỡ rằng, Nokia dựa vào thế mạnh từ dòng điện thoại phổ thông để tăng tốc. Nhưng theo Công ty Nghiên cứu Counterpoint Research, dù mới trở lại Việt Nam từ đầu năm 2017, chỉ sau 9 tháng, Nokia đã nhanh chóng vươn lên vị trí thứ 4 trong làng smartphone. Từ đó đến nay, bất chấp cạnh tranh gay gắt từ hơn 30 thương hiệu điện thoại di động lớn nhỏ khác nhau, Nokia vẫn trụ vững trong cuộc đua giành thị phần.

Con số 25% thị phần là phần thưởng cho nỗ lực của Nokia tại Việt Nam. Theo ông Kyler Tan, Giám đốc Điều hành HMD Global tại Việt Nam, quá trình này không dễ dàng nhưng Nokia đã làm được nhờ vào nhiều yếu tố.

Thứ nhất, Nokia có những sản phẩm đủ tốt. Nokia đã hồi sinh những chiếc điện thoại huyền thoại, từng rất được yêu thích và sử dụng rộng rãi một thời như điện thoại 3310, điện thoại 8810… Khác chăng là ở phiên bản năm 2017, các điện thoại này được thiết kế trẻ trung, với nhiều tính năng hơn nhưng vẫn đảm bảo độ bền cao.

Vì thế, mặc dù vẫn ưu tiên lựa chọn smartphone nhưng nhiều thành viên ở các diễn đàn công nghệ cho biết, họ sẽ mua thêm “cục gạch” Nokia để dự phòng. Tính đến nay, theo chia sẻ của ông Kyler Tan, dòng điện thoại cơ bản của Nokia vẫn rất được ưa chuộng ở Việt Nam, đạt quy mô thị trường không kém gì dòng smartphone. Thậm chí, trong cơ cấu doanh thu Nokia hiện nay tại Việt Nam, sản phẩm điện thoại cơ bản vẫn đang nhỉnh hơn.

Ở phân khúc smartphone, sản phẩm được đón nhận nồng nhiệt nhất là Nokia 3, bên cạnh các mẫu Nokia 2, Nokia 5, Nokia 6, Nokia 7Plus… Các smartphone của Nokia đa phần thuộc phân khúc giá rẻ, trong khoảng 100-150 USD/chiếc. Đây là phân khúc chiếm 1/3 thị trường smartphone hiện nay của Việt Nam. Ở dòng cao cấp, Nokia có sản phẩm Nokia 8 Sirocco. Nhưng với giá 920USD, có vẻ như Nokia đang muốn bán danh tiếng hơn là doanh số.

Thứ 2, Nokia trở lại Việt Nam trong chiến lược đưa sản phẩm ra thị trường một cách nhanh nhất. Theo chia sẻ của ông Nguyễn Hoàng Đông, đại diện HMD Global ở Việt Nam, Công ty đã tiếp cận thị trường cả nước, len lỏi đến các vùng sâu vùng xa. Điều này khác với một số thương hiệu chỉ tập trung bán hàng ở các thành phố lớn.

Nokia cũng không bán lẻ trực tiếp mà thông qua các đối tác phân phối. HMD không tiết lộ số lượng nhà phân phối nhưng theo thông tin NCĐT có được, có 3 đơn vị đang phân phối cho Nokia. Trong đó, Digiworld là tên tuổi mới nhất. Cái bắt tay hợp tác phân phối sản phẩm Nokia giữa HMD và Digiworld là minh chứng cho chiến lược phát triển thị trường sâu hơn của HMD ở Việt Nam.

Theo ông Nguyễn Hoàng Đông, nguyên nhân giúp Nokia trở lại ngôi vị dẫn đầu vì Nokia là cái tên thân quen ở Việt Nam. Thời hoàng kim, Nokia từng nắm giữ 60% thị phần điện thoại di động cả nước. Bây giờ, dù không tiết lộ chi tiết kế hoạch nhưng lãnh đạo HMD Global khẳng định, Công ty đang nỗ lực đưa Nokia trở lại vị thế ban đầu khi xưa.Digiworld là nhà phân phối sản phẩm công nghệ có tiếng của Việt Nam, từng phân phối cho Nokia trước kia. Ở lần bắt tay này, ông Đoàn Hồng Việt, CEO Digiworld, cho biết, hợp tác giữa đôi bên sẽ mở rộng, trên nhiều yếu tố chứ không chỉ ở sản phẩm. Dự kiến Digiworld sẽ bán sản phẩm Nokia từ quý IV/2018.

Lợi hại hơn xưa?

Sự trở lại của Nokia mang nhiều ý nghĩa. Bởi Nokia từng thua lỗ triền miên và buộc phải bán mảng thiết bị di động cho Microsoft (năm 2013). Không lâu sau, Microsoft cũng bán mảng này cho HMD Global (liên minh với FIH Mobile, một công ty con của Hon Hai/Foxconn trong thương vụ).

Trải qua nhiều thăng trầm, nhờ hợp đồng ký kết giữa HMD Global và Foxconn Technology Group, HMD đã kiểm soát hoạt động bán hàng, tiếp thị và phân phối điện thoại, máy tính bảng mang thương hiệu Nokia. Còn Foxconn trở thành nhà sản xuất độc quyền các thiết bị Nokia.

Nokia đang tìm lại hào quang đã mất, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Theo HMD Global, Nokia đã bán được 70 triệu chiếc năm 2017 tại 80 quốc gia. Sau quý I/2018, Nokia nằm trong top 5 thương hiệu smartphone phổ biến nhất châu Âu, theo Canalys. Còn theo thống kê của Counterpoint Research, quý II/2018 Nokia đã bán được 4,5 triệu smartphone trên thế giới. Điều này đồng nghĩa Nokia xếp thứ 9 trong 10 nhà sản xuất smartphone lớn nhất.

Mặc dù cuộc chiến cạnh tranh còn dài và giới đầu tư vẫn còn nghi ngại về chất lượng của Nokia, do Nokia giờ đã đổi chủ sở hữu, công nghệ và các tính năng…, nhưng người yêu mến thương hiệu Nokia vẫn tin tưởng, Nokia sẽ thích nghi thời thế và tạo ra những kỳ tích mới. Thành công trước mắt ở Việt Nam và thế giới có thể xem là bước khích lệ đáng kể cho Nokia trong lần trở lại này.Những sản phẩm của Nokia, khi quay trở lại thị trường, phần lớn thuộc phân khúc giá rẻ. Các sản phẩm được trang bị hệ điều hành Android nguyên bản chứ không còn dùng Windows Mobile. Smartphone Nokia cũng đảm bảo tính bảo mật cao nhất từ Google và cập nhật nhanh chóng. Ngoài ra, ở điện thoại Nokia, các ưu điểm về pin lâu, máy bền… vẫn được giữ lại.

Viết Nguyên

Snapchat kết hợp Amazon cung cấp dịch vụ mua sắm qua hình ảnh

Snapchat đang hợp tác cùng Amazon để hỗ trợ người dùng mua bất kỳ sản phẩm nào mà họ nhìn thấy qua ống kính máy ảnh điện thoại thông minh.

Người dùng có thể sử dụng camera của Snapchat để chụp hoặc quét mã vạch sản phẩm mà họ nhìn thấy ngoài đời thực. Nếu sản phẩm đó được bán trên Amazon, sẽ có một liên kết được tạo ra để người dùng mua sản phẩm trên ứng dụng hoặc trang web của hãng thương mại điện tử khổng lồ. Trong trường hợp sản phẩm cụ thể không có sẵn, Amazon sẽ đề xuất các lựa chọn tương tự, Bloomberg trích thông tin trong một bài đăng trên blog của Snapchat hôm 24.9.

Công cụ mua sắm hiện chỉ có sẵn cho một nhóm nhỏ người dùng ở Mỹ có thể sẽ đem đến nguồn doanh thu khác cho ứng dụng truyền thông xã hội đang gặp khó khăn. Trong một số quý gần đây, Snapchat đã báo cáo tình hình tăng doanh thu đáng thất vọng. Ngoài ra, hãng công nghệ có trụ sở tại Los Angeles (Mỹ) còn đang đối mặt với cuộc khủng hoảng nhân sự cấp cao. Snapchat từ chối bình luận về mối quan hệ tài chính với Amazon.

Amazon và đối thủ Ebay đều có chức năng tìm kiếm trực quan. Việc bắt tay với Snapchat có thể sẽ giúp Amazon thúc đẩy hoạt động tìm kiếm trực quan ở đối tượng người mua sắm trẻ, đồng thời giữ cho người dùng Snapchat không bị lạc ra khỏi các trang web thương mại cạnh tranh.

Bên cạnh đó, thỏa thuận này cũng có khả năng giúp Amazon dễ điều hướng trang web của mình hơn. Với hàng trăm triệu sản phẩm, việc tìm kiếm bằng văn bản sẽ là một trở ngại khi người dùng không thể mô tả chính xác những gì họ muốn. Trong khi đó, hình ảnh có thể cung cấp kết quả có liên quan nhanh hơn.

Động thái liên kết giữa Amazon và Snapchat là một phần của xu hướng kết hợp máy ảnh điện thoại thông minh vào hoạt động thương mại bằng cách sử dụng công nghệ nhận dạng hình ảnh để hợp lý hóa quy trình tìm kiếm và mua sắm. Pinterest cũng có công cụ tương tự để mua hàng hoặc tìm kiếm ý tưởng thông qua hình ảnh. Ebay cũng đang cho phép các nhà bán lẻ dùng máy ảnh điện thoại thông minh trỏ vào sản phẩm, sau đó tự động điền mô tả sản phẩm, thương hiệu, đề xuất giá bán và kích thước hộp phù hợp nhất.

20 cột mốc quan trọng nhất trong lịch sử của Google

Google đã chính thức bước sang tuổi 20, một chặng đường với rất nhiều kỷ niệm và cột mốc đáng nhớ.

Từ dự án nghiên cứu của hai sinh viên đại học Stanford đến một trong những công ty thành công nhất lịch sử nhân loại, không thể phủ nhận tầm ảnh hưởng to lớn của Google đến cuộc sống mỗi chúng ta ngày nay. Để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 20 của Google, hãy nhìn lại những sản phẩm, cột mốc đáng nhớ nhất trong lịch sử “gã khổng lồ tìm kiếm”.

1. Google Search

Đây là nơi mọi thứ bắt đầu. Tuy công cụ tìm kiếm trên internet đã có từ lâu trước khi Google xuất hiện, song điểm khác biệt của Google nằm ở cách sắp xếp kết quả tìm kiếm. Thay vì dựa trên từ khóa như những bộ máy khác, Google sử dụng backlink, số lượng liên kết hướng đến bất kỳ nội dung trong một trang web cụ thể.

Theo Android Authority, tiền thân của Google Search được vận hành vào năm 1996 trên máy chủ đại học Stanford, nơi mà Larry Page và Sergey Brin, hai nhà đồng sáng lập của Google theo học, với tên gọi BackRub. Hai năm sau, khi nhận thấy sự vượt trội của thuật toán tìm kiếm, BackRub được đổi tên thành Google. Page và Brin cũng bắt đầu tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho Google.

2. Google Doodle đầu tiên

Năm 1998, toàn bộ hoạt động của Google vẫn do Larry Page và Sergey Brin quản lý. Tháng 8/1998, cả 2 tạm “rời xa” Google để tham dự lễ hội Burning Man tổ chức tại Nevada.

Để người dùng biết rằng Google sẽ không được quản lý trong thời gian 2 nhà sáng lập đi chơi, Page và Brin đã thêm logo Burning Man vào chữ O màu vàng trong logo trên trang chủ, trở thành Doodle đầu tiên của Google.

Từ đó đến nay, hàng ngàn Doodle đã được tạo ra để kỷ niệm những ngày lễ, con người và cho chính Google.

Google và Doodle dường như là 2 phần không thể tách rời nhau. Đây cũng là điều thú vị khiến người ta thích truy cập Google mỗi ngày.

Bạn có thể xem kho lưu trữ những Doodle từng xuất hiện tại đây.

3. Google từng muốn bán mình, nhưng bị từ chối

Năm 1999, Google bắt đầu “tự lực cánh sinh”, lúc này Page và Brin có ý định bán thuật toán và thương hiệu Google cho một công ty khác đó là Excite, một trong những công cụ tìm kiếm lớn nhất thời bấy giờ với giá… 750.000 USD.

Thật may bởi Excite đã từ chối vì cho rằng 750.000 USD cao hơn so với giá trị của công ty.

Mọi thứ sau đó thì ai cũng biết, Google trở thành một trong những công ty công nghệ hàng đầu thế giới với giá thị thị trường hiện là 825 tỷ USD.

4. Google AdWords

Khi Google Search bắt đầu thành công, cùng với việc bị Excite từ chối mua lại, Page và Brin đã nghĩ đến việc kiếm tiền từ Google.

Năm 2000, Google giới thiệu AdWords, nền tảng giúp các công ty, thương hiệu quảng bá sản phẩm của mình trong Google. Trong thời gian đầu, nhà quảng cáo chỉ cần trả khoản tiền “cứng” hàng tháng là được chèn quảng cáo ngay.

AdWords nhanh chóng trở thành cỗ máy kiếm tiền cực kỳ hiệu quả. Hiện AdWords và các công cụ quảng cáo có liên quan chiếm đến 86% tổng doanh thu của Google.

5. Google được sử dụng như một động từ

Trong tập 5 của series Buffy the Vampire Slayer phát sóng ngày 15/10/2002, nhân vật Willow hỏi Buffy: “Đã ‘Google’ cô ấy chưa?

Chỉ là một câu thoại trong phim, nhưng đây chính là lần đầu tiên Google được sử dụng như một động từ, chỉ hành động tìm kiếm thông tin về một cái gì đó trên Google Search. Điều đó cho thấy sự phổ biến rộng lớn của Google tuy mới ra đời được 4 năm.

6. Yahoo ra giá 3 tỷ USD để mua lại Google

Năm 2002, Google kiếm được khoảng 240 triệu USD mỗi năm, con số không tưởng với một công ty chỉ mới 4 tuổi.

Nhưng 240 triệu USD của Google chẳng là gì so với doanh thu của Yahoo vào thời điểm đó: 837 triệu USD.

Nhận thấy tiềm năng của Google, Yahoo ngỏ ý muốn mua lại công ty với giá 3 tỷ USD. Đề nghị bị Page và Brin thẳng thừng từ chối, cả 2 tuyên bố sẽ không bán công ty với giá dưới 5 tỷ USD.

Thời điểm Yahoo ra giá cho thấy sự lớn mạnh của Google khi từ một công ty bị từ chối mua lại với giá chưa đầy 1 triệu USD đến thương vụ bạc tỷ chỉ trong 3 năm.

7. Googleple

Khi đã rủng tỉnh tiền, Page và Brin cần mở rộng quy mô hoạt động của Google. Lúc ấy các đội ngũ vẫn làm việc ở nhiều văn phòng trải dài trên San Francisco. Để tập trung lực lượng về một nơi, Google đã thuê một khu phức hợp tại Mountain View. Nơi đây được gọi vui là Googleplex và vẫn được duy trì làm trụ sở chính cho đến hiện nay.

8. Gmail

Dự án ban đầu có tên “Caribou”, được phát triển bí mật bởi Paul Buchheit, một kỹ sư tại Google. Ngay cả các nhân viên khác cũng không biết sự tồn tại của nó.

Sau khi hoàn tất, sản phẩm của Buchheit được sử dụng nội bộ với tên gọi Gmail. Năm 2004, Google cho thử nghiệm rộng rãi Gmail trước khi phát hành chính thức vào 7/7/2009 (Đúng vậy! Gmail được thử nghiệm trong 5 năm).

Hiện Gmail đang là dịch vụ email phổ biến nhất thế giới với 1,4 tỷ người dùng.

9. Google lên sàn chứng khoán

Tháng 8/2004, Google chính thức trở thành công ty đại chúng với giá cho mỗi cổ phiếu là 85 USD, giá trị vốn hóa đạt 1,9 tỷ USD. Sau 14 năm “lên sàn”, giá cổ phiếu của Google hiện vào khoảng 1.200 USD, giá trị vốn hóa thị trường là 825 tỷ USD.

Bằng việc lên sàn chứng khoán, Google buộc phải duy trì việc làm hài lòng các cổ đông, điều đó có thể thay đổi đáng kể cách hoạt động của một doanh nghiệp. Hiện nay tuy kiếm được rất nhiều tiền, Google vẫn dành thời gian thực hiện các dự án moonshot (dự án tham vọng, đột phá nhưng cơ hội thành công, có lợi nhuận thì không rõ ràng).

10. Google Maps

Đến năm 2005, sau khi thành công với dịch vụ tìm kiếm và email, Google quyết định “lấn sân” sang lĩnh vực định vị GPS với Google Maps.

Sử dụng Google Maps, người dùng có thể xem ảnh chụp vệ tinh trên cao, xem bản đồ và nhận chỉ đường chi tiết. Qua những bản cập nhật sau đó, bạn còn có thể làm nhiều thứ hơn với Maps: xem tình trạng giao thông, đánh giá địa điểm….

Google Maps hiện là một trong những ứng dụng phổ biến nhất trên smartphone, với đa số người dùng cho biết từng sử dụng nó ít nhất một lần.

11. Google mua lại YouTube

Năm 2004, một sự kiện đã trở thành cảm hứng cho một nhóm nhỏ lập trình viên tạo ra website nơi mọi người có thể chia sẻ video dễ dàng cho nhau. Website được đặt tên là YouTube, chỉ trong vài năm đã đạt 8 triệu lượt xem video mỗi ngày.

Năm 2006, Google mua lại YouTube với giá trị cổ phiếu tương đương 1,65 tỷ USD. Đây là thương vụ lớn nhất của Google vào thời điểm ấy.

Sau khi về tay Google, YouTube ngày càng lớn mạnh và phổ biến. Hiện YouTube là website được truy cập nhiều thứ hai trên internet, đứng sau chính công ty sở hữu nó: Google.

Tháng 5/2017, YouTube được định giá khoảng 160 tỷ USD, gấp gần 100 lần số tiền Google bỏ ra để mua nó.

12. Sự ra đời của Google Docs

Trong năm 2005 và 2006, Google đã mua lại hai công ty nhỏ, một công ty với sản phẩm là công cụ soạn thảo văn bản, công ty còn lại là công cụ tạo bảng tính, cả 2 đều dựa trên nền web.

Mùa hè năm 2006, Google phát hành 2 công cụ trên cho một nhóm nhỏ người dùng đăng ký trước, sau đó chính thức phát hành rộng rãi với tên Google Docs.

Hiện Google Docs là lựa chọn thay thế hoàn hảo, miễn phí so với những công cụ khác như Microsoft Word. Việc tích hợp vào Google Drive còn giúp Docs ngày càng mạnh mẽ, được nhiều người sử dụng hơn.

13. Phát hành chiếc điện thoại Android đầu tiên

Năm 2003, một nhóm lập trình viên đã tạo ra hệ điều hành Android với ý định tích hợp nó vào những chiếc camera kỹ thuật số. Sau đó 2 năm, Google mua lại công ty với giá trị (tin đồn) là 50 triệu USD, chuyển hướng sang phát triển Android cho thiết bị di động.

Sự ra đời của HTC Dream (hay T-Mobile G1) năm 2008 chính thức đặt nền móng cho Android trên smartphone. Chỉ vài năm sau đó, Android đã trở thành nền tảng di động phổ biến nhất thế giới.

Với mức giá 50 triệu USD, đây được xem là thương vụ “hời” nhất mà Google từng thực hiện.

14. Ra mắt trình duyệt Google Chrome

Tháng 9/2008 là khoảng thời gian bận rộn của Google, không chỉ với việc tung ra thiết bị Android đầu tiên mà còn là sự ra đời của trình duyệt mà sau này thống trị thế giới: Google Chrome.

Vào thời gian đó, điểm nổi bật của Chrome so với đối thủ chính là Omnibar, thanh địa chỉ và tìm kiếm được gộp thành một thay vì hai phần riêng biệt như các trình duyệt khác. Một giao diện đơn giản, cập nhật liên tục với những tính năng đột phá giúp Chrome trở thành sản phẩm không thể thiếu, trở thành tiêu chuẩn cho ngành công nghiệp web.

Khi phát hành Chrome, Google đã thành lập được 10 năm với mức vốn hóa thị trường là 150 tỷ USD.

15. Đạt 1 tỷ lượt tìm kiếm mỗi ngày

Năm 2009, Google đã “thống trị” mảng tìm kiếm trên internet với thị phần tại Mỹ là 65%. Đó cũng là lúc đánh dấu cột mốc quan trọng của Google: một tỷ lượt tìm kiếm mỗi ngày.

Hiện nay Google xử lý khoảng 40.000 lượt tìm kiếm mỗi giây, tức 3,5 tỷ lần mỗi ngày và 1,2 nghìn tỷ lần mỗi năm.

16. Ra mắt Nexus One

Tháng 1/2010, Google trình làng Nexus One, smartphone chạy Android hợp tác sản xuất cùng HTC. Đây là thiết bị đầu tiên của Google trong nỗ lực phát triển smartphone mang thương hiệu Google. Dòng Nexus được duy trì đến năm 2015, với 2 sản phẩm cuối cùng là Nexus 5X do LG sản xuất và Nexus 6P do Huawei (Trung Quốc) sản xuất.

Tuy đã được thay thế bằng dòng Pixel, nhưng Nexus vẫn là điểm khởi đầu cho mọi tham vọng phần cứng của Google.

17. Android Market trở thành Google Play

Kho ứng dụng đầu tiên của Android không phải Google Play mà là Android Market. Khi nhận thấy Android ngày càng phổ biến và sự hiện diện của Google trên smartphone cũng càng rộng lớn, cửa hàng trực tuyến chỉ dành cho “Android” là quá hạn hẹp.

Năm 2012, Google quyết định kết hợp Android Market với hai sản phẩm là Google Music và Google eBookstore thành một, đặt tên cho nó là Google Play.

Hiện tại, với Google Play bạn có thể truy cập tất cả nội dung số của Google như ứng dụng, phim, chương trình TV, sách báo, âm nhạc,… Chỉ trong năm 2017, Google đã kiếm hơn 20 tỷ USD từ Google Play.

18. Hướng tới tương lai với Google Glass

Trước năm 2012, Google đã có vài dự án moonshot khác nhau, nổi bật nhất là dự án xe tự lái, mà sau này trở thành công ty riêng mang tên Waymo.

Dù vậy không có sản phẩm moonshot nào gặp nhiều sóng gió như Google Glass, chiếc kính với màn hình hiển thị phía trước. Được giới thiệu tại hội nghị I/O 2012, Glass được đánh giá là bước khởi đầu của tương lai.

Đột phá là vậy, nhưng không nhiều người thực sự “mặn mà” với tương lai của Glass, sự riêng tư là vấn đề được quan tâm nhất. Glass đã “đi trước thời đại” quá nhiều, quá sớm.

19. Alphabet ra đời

Năm 2015, Google quyết định tái cấu trúc lại chính mình. Một công ty mới ra đời mang tên Alphabet, đóng vai trò là công ty mẹ của Google bên cạnh việc quản lý các dự án moonshot đã và đang trong quá trình thực hiện.

Việc tái cấu trúc không ảnh hưởng nhiều đến người dùng, song nó đã phục vụ các cổ đông muốn biết tình hình tài chính thực sự của Google mà không có những dự án moonshot, đặc biệt là sau những tranh cãi xung quanh Google Glass.

Cùng với việc tái cấu trúc công ty, Google cũng có logo mới được dùng đến hiện nay:

20. “OK Google”

Năm 2016, hai dấu mốc mới được Google thiết lập: trợ lý ảo Assistant lần đầu xuất hiện trên dòng loa thông minh Google Home, và dòng smartphone Google Pixel ra đời.

Kể từ đó, “OK Google” đã trở thành câu lệnh quen thuộc. Với câu nói trên, người dùng có thể kích hoạt, yêu cầu Assistant làm nhiều nhiệm vụ như trả lời câu hỏi, thêm ghi chú, cảnh báo thời tiết, phát nhạc hay những tác vụ khác.

Bộ máy tìm kiến được Page và Brin tạo ra tại Stanford năm 1998 giờ đã có tên và giọng nói của riêng mình (thậm chí là cơ thể nếu tính cả Google Home).

20 năm nữa, mọi thứ sẽ như thế nào?

Không có lý do gì để Google dừng lại. Mọi thứ tại Google vẫn sẽ tiếp tục, thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa trong 20 năm tới.

Bạn nghĩ rằng trong 20 năm tiếp theo Google sẽ như thế nào?