Category Archives: News

Alibaba đại chiến Amazon ở các thị trường mới nổi

Tập đoàn Alibaba (Trung Quốc) đang ngày càng lấn sâu hơn vào cuộc chiến toàn cầu với đối thủ Amazon đến từ Hoa Kỳ.

Để giành lợi thế cạnh tranh, Alibaba đang củng cố vị thế dẫn đầu của mình ở Trung Quốc, cũng như đẩy mạnh sự phát triển ở Đông Nam Á, Ấn Độ và các thị trường mới nổi khác.

Hôm 03/10, Alibaba đã tạm qua mặt Amazon về mặt giá trị vốn hóa thị trường, và sau đó chốt phiên giao dịch ở mức 469 tỷ USD, chỉ còn thua 5 tỷ USD so với Amazon.

Sang ngày hôm sau, CEO của Alibaba là Jack Ma Yun (Mã Vân) đã công bố kế hoạch trị giá 15 tỷ USD để xây dựng một viện nghiên cứu mới gọi là Học viện DAMO, nhằm nghiên cứu những lĩnh vực mũi nhọn như trí thông minh nhân tạo (AI) và truyền thông tin lượng tử (quantum communications). Jack Ma cho biết từ trước đến nay Trung Quốc vẫn hay phải theo sau những nước như Hoa Kỳ và Nga, nhưng cho rằng đã đến lúc quốc gia đông dân nhất thế giới tự mở lối riêng cho mình.

Cuộc chiến giá trị vốn hóa

Giá cổ phiếu của Alibaba tại Mỹ (còn gọi là cổ phiếu dạng ADR) đang tăng vọt, và chốt phiên hôm thứ Ba ở mức cao kỷ lục 183 USD, so với mức 88 USD hồi đầu năm nay. Như vậy, giá trị vốn hóa của Alibaba đã cao hơn gấp đôi so với nhà sản xuất ô tô Toyota của Nhật Bản.

So sánh giá trị vốn hóa của Amazon và Alibaba. Ảnh: Nikkei.

Alibaba đã được niêm yết trên thị trường chứng khoán New York từ tháng 9/2014. Khi đó, đợt IPO này đã đem về cho công ty khoản tiền kỷ lục 25 tỷ USD. Nhưng một năm sau đó, giá cổ phiếu Alibaba đã rớt xuống chỉ còn một nửa so với lúc đỉnh điểm. Tại thời điểm đó, Jack Ma than thở trong một cuộc phỏng vấn với Nikkei rằng thật khó để cho các nhà đầu tư Mỹ, những người chưa bao giờ sử dụng các dịch vụ của Alibaba, hiểu được tiềm năng thực sự của công ty.

Nhưng 2 năm sau, giá cổ phiếu của Alibaba đã tăng gấp 3 lần, chủ yếu nhờ vào việc thực hiện hai chiến lược: thống trị thị trường sân nhà Trung Quốc và tìm kiếm tăng trưởng ở các nền kinh tế mới nổi.

Giữ chặt sân nhà, bành trướng ra nước ngoài

Tại Trung Quốc, Alibaba đang tận dụng hầu bao dồi dào của mình để rót vốn vào các startup đang trỗi dậy, nhằm củng cố vị thế thống trị trên thị trường công nghệ. Vào tháng 7, Alibaba đã liên kết với các nhà đầu tư khác để đổ 700 triệu USD vào dịch vụ chia sẻ xe đạp Ofo. Alibaba cũng đã đầu tư vào hàng loạt lĩnh vực khác, bao gồm các dịch vụ video, trang hỏi đáp thông tin và các ứng dụng gọi xe.

Amazon đã đạt doanh thu 136 tỷ USD trong năm 2016, trong khi doanh thu của Alibaba trong năm tài chính gần nhất (kết thúc ngày 31/3) là vào khoảng 31 tỷ USD.

Vào năm 2015, khi thị trường chứng khoán Thượng Hải bị rúng động mạnh, cổ phiếu của Alibaba đã bị bán tháo khá nhiều trong bối cảnh nhiều người bi quan về sức khoẻ của nền kinh tế Trung Quốc. Tuy nhiên, khi những lo ngại này giảm xuống, các nhà đầu tư đã quan tâm trở lại đến Alibaba. Công ty này đang giữ vị thế thống trị thị trường Trung Quốc, vốn có nhóm dân số thuộc tầng lớp trung lưu đông đảo hơn toàn bộ dân số Hoa Kỳ và vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này đã tạo đà tăng giá cho cho cổ phiếu của Alibaba tại Mỹ.

Thị trường Trung Quốc hiện vẫn đóng góp hơn 90% doanh thu của Alibaba, làm các nhà đầu tư lo ngại rằng công ty này bị phụ thuộc quá nhiều vào sân nhà. Nhưng năm ngoái, Alibaba đã thâu tóm trang thương mại điện tử Lazada ở Đông Nam Á. Tập đoàn này cũng đang nỗ lực để thúc đẩy hệ thống thanh toán di động Alipay ở các quốc gia như Ấn Độ và Nga.

Amazon đã đạt doanh thu 136 tỷ USD trong năm 2016, trong khi doanh thu của Alibaba trong năm tài chính gần nhất (kết thúc ngày 31/3) là vào khoảng 31 tỷ USD. Tuy nhiên, doanh thu của Alibaba là dựa vào việc tính phí những người bán hàng sử dụng các sàn thương mại điện tử của công ty, chứ không phải là doanh thu từ việc bán hàng trực tiếp đến tay người tiêu dùng như Amazon, do đó 2 con số này không thể được so sánh trực tiếp. Một điều ấn tượng là dù có doanh thu thấp hơn nhiều, nhưng Alibaba lại có lợi nhuận hoạt động 7 tỷ USD, bỏ xa mức 4,2 tỷ USD của Amazon.

Tìm kiếm tăng trưởng

Các nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ và các nước Đông Nam Á sẽ đóng vai trò quyết định trong cuộc đối đầu giữa 2 gã khổng lồ thương mại điện tử. Hiện tại, 2 bên đang có sự phân định lãnh thổ khá rạch ròi: Amazon chủ yếu tập trung vào các nước phát triển như Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản, trong khi Alibaba tập trung vào Trung Quốc. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc nữa 2 bên sẽ so kè nhau quyết liệt tại các thị trường mới nổi, vốn vẫn còn rất nhiều dư địa chờ người khai phá.

Đông Nam Á và Ấn Độ là những chiến trường mới của các đại gia thương mại điện tử. Ảnh: Nikkei.

Cuộc đối đầu trực tiếp đầu tiên giữa 2 bên đã được khởi động tại Singapore. Mùa hè này, Amazon mở trung tâm phân phối đầu tiên tại Đông Nam Á tại đảo quốc này, vốn cũng là nơi đặt trụ sở công ty con Lazada của Alibaba.

Tại Ấn Độ, Alibaba đang cung cấp dịch vụ bán sỉ trực tuyến cho những người bán hàng, và đã đầu tư vào các doanh nghiệp thương mại điện tử địa phương. Amazon thì đã đột nhập vào thị trường Ấn Độ từ năm 2013, và hiện giữ ngôi vị số 2 trong mảng bán lẻ thương mại điện tử. Hãng này cũng đã đầu tư vào các chuỗi cửa hàng bán lẻ địa phương.

Ngoài các thế mạnh về chất lượng sản phẩm và sức mạnh thương hiệu, Amazon còn có lợi thế là có nguồn thu từ những mảng kinh doanh đem lại nhiều giá trị gia tăng như dịch vụ điện toán đám mây. Trong khi đó, Alibaba đang phải đối mặt với những trở ngại về việc cải thiện chất lượng, ví dụ như tình trạng hàng giả tràn lan trên các sàn của hãng. Nhưng đồng thời, Alibaba cũng có những hệ thống dễ sử dụng như dịch vụ thanh toán Alipay.

Trận chiến Amazon-Alibaba chắc chắc sẽ còn kéo dài, nhưng có một điều chắc chắn là cuộc đối đầu giữa 2 đối thủ ở 2 đầu Thái Bình Dương này sớm muộn sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối với người tiêu dùng trên toàn thế giới.

[Infographic] Hãng ô tô nào có thương hiệu giá trị nhất thế giới?

Hãng xe Nhật Toyota được Interbrand đánh giá là hãng xe hơi có thương hiệu giá trị nhất thế giới.

Hãng tư vấn Mỹ Interbrand vừa công bố bảng xếp hạng 100 thương hiệu giá trị nhất thế giới. Để có mặt ở bảng xếp hạng này, các doanh nghiệp phải thỏa mãn nhiều điều kiện khác nhau. Trong đó ít nhất 30% doanh số bán hàng thu được từ các quốc gia bên ngoài quê hương của nhãn hiệu đó, và phải có mặt ở những thị trường lớn tại châu Mỹ, châu Âu và châu Á.

Với thương hiệu được định giá 50,291 tỷ USD, Toyota đứng thứ 7 trong Top 100 và dẫn đầu lĩnh vực xe hơi. Tiếp theo là Mercedes, BMW và Honda.

.

“>

Nhấp chuột vào ảnh để xem kích thước lớn.

Steve Jobs, Bill Gates… tác động đến cuộc sống của chúng ta như thế nào?

Sự xuất hiện của Apple, Microsoft, Facebook… đã tạo nên những cuộc cách mạng lớn trong đời sống con người.

Steve Jobs

Trong nhiệm kỳ thứ hai đảm nhận cương vị giám đốc điều hành Apple, Steve Jobs đã mở ra kỷ nguyên mới của những chiếc điện thoại thông minh.

Steve Jobs

Steve Jobs tạo nên một cuộc cách mạng về công nghệ.

Tính đến tháng 7 năm 2016, đã có hàng tỷ chiếc Iphone được tiêu thụ trên thị trường. Đặc biệt, chỉ tính riêng quý hai năm 2017, công ty này đã có doanh số bán ra lên tới 50,76 triệu sản phẩm.

Jeff Bezos

Năm 1994, Jeff Bezos thành lập Amazon. 5 năm sau, ông được tạp chí Time vinh danh là ‘Nhân vật của năm’ bởi những đóng góp vĩ đại cho thế giới.

Jeff Bezos

Jeff Bezos thành công với Amazon.

Trong vài thập kỷ qua, Amazon đã làm thay đổi thói quen mua sắm của mọi người. Chỉ cần ngồi nhà, click chuột, hàng nghìn sản phẩm với mức giá khác nhau sẽ hiện ra để họ dễ dàng lựa chọn theo nhu cầu của bản thân.

Elon Musk

Elon Musk

Elon Musk hiện đang là giám đốc điều hành SpaceX

SpaceX của Elon Musk được chú ý khi sáng tạo ra những vật dụng không gian có thể tái sử dụng. Mỗi nhiệm vụ được hoàn thành, SpaceX nhận 133 triệu USD từ NASA. Tuy hiện tại, các sản phẩm của công ty vẫn chưa tác động quá nhiều đến cuộc sống thường nhật nhưng trong tương lai, họ nuôi hi vọng có thể đưa con người đến sống trên một hành tinh khác.

Bill Gates

Bill Gates

Bill Gates, người sáng lập Windows.

Bill Gates đã phát triển hệ điều hành Windows, thay đổi hoàn toàn thói quen sử dụng máy tính của mọi người. Với giao diện thân thiện và nhiều tính năng, Windows đã giúp con người dễ dàng tiếp cận với thế giới thông qua chiếc máy tính cá nhân.

Mark Zuckerberg

Mark Zuckerberg

Facebook được coi là vua mạng xã hội.

Mark Zuckerberg đã sáng lập ra Facebook, ứng dụng được tôn vinh là ‘vua mạng xã hội’ với gần 2 tỷ người dùng hoạt động mỗi tháng.

Dự án của anh được ưa chuộng ngay từ khi ra mắt bởi nó đã góp phần mang mạng xã hội đến gần hơn với con người, giúp kết nối thế giới và cách mạng hóa ngành quảng cáo. Hiện tại, giá trị của Facebook đã lên tới 245 tỷ USD, lớn hơn cả Walmart.

Travis Kalanick

Travis Kalanick đã hoàn thiện ứng dụng gọi taxi Uber. Đây là một công ty tư nhân, và theo Forbes nhận định, giá trị của nó trên thị trường là khoảng 68 tỷ USD.

Travis Kalanick

Travis Kalanick là người sáng lập Uber.

Kalanick và người bạn đồng sáng lập, Garrett Camp đã nảy ra ý tưởng tạo Uber, khi họ không thể bắt được taxi ở Paris trong một buổi tối năm 2008. Họ đã phát triển dự án này thành công ty công nghệ, nơi cung cấp hàng triệu chuyến xe mỗi ngày, trên toàn thế giới.

Sam Walton

Ban đầu, Walton mở một cửa hàng nhỏ tại Arkansas với ý tưởng cung cấp hàng hóa giá rẻ cho khách hàng. Trong suốt quá trình kinh doanh, ông luôn tuân thủ các quy tắc như chia sẻ lợi nhuận, kiểm soát tài chính tại cửa hàng, tối giản chi phí cho khách hàng và phá vỡ lối mòn trong tư duy.

Sam Walton

Waltmart hiện được định giá lên tới 221,1 tỷ USD.

Walmart được tôn vinh là mô hình kinh doanh thành công nhất mọi thời đại, tạo nên một cuộc cách mạng đối với thói quen mua sắm của người tiêu dùng trên toàn cầu. Ngày nay, Waltons được coi là gia tộc giàu có nhất nước Mỹ, với khối tài sản lên tới 130 tỷ USD.

Frederick W.Smith

Frederick W.Smith

Chân dung người sáng lập FedEx.

Frederick Smith là người sáng lập tập đoàn FedEx, chuyên cung cấp các dịch vụ vận chuyển hàng hóa. Mỗi ngày, công ty này có 13 triệu đơn hàng, thu về lợi nhuận lên tới 50,4 tỷ USD vào năm 2016. Hiện tại, FedEx đã có 685 phi cơ, 150.000 phương tiện vận chuyển và 400.000 nhân viên.

Reed Hastings

Tính đến quý 4 của năm 2016, Netflix này đã có tới 98,75 triệu người sử dụng trên khắp thế giới. Năm 2017, Forbes đã báo cáo rằng Netflix có lượng người truy cập cao hơn hẳn so với hệ thống truyền hình cáp thông thường.

Reed Hastings

Chân dung Ree Hastings.

Hastings đã tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực truyền thông, đặc biệt là với phim ảnh, truyền hình. Cụ thể, dự án của ông đã làm thay đổi cách thức sản xuất, phân phối nội dung video trên toàn thế giới, khiến các cửa hàng cho thuê băng, đĩa bị ‘thất sủng’ trên thị trường.

Hiểu tâm lý bầy đàn để quản trị tốt thương hiệu

Ông Khuất Quang Hưng, chuyên gia thương hiệu, hiện đang là phụ trách đối ngoại và truyền thông của một công ty đa quốc gia tại Việt Nam chia sẻ với chúng tôi về cách ứng xử với “tâm lý bầy đàn” để quản trị tốt nhất danh tiếng thương hiệu.

Sự lây lan của “virus cảm xúc”

* Thưa ông, thời gian gần đây, với sự phát triển của mạng xã hội, người ta càng nhìn thấy rõ hơn bao giờ hết sức mạnh của “tâm lý bầy đàn” trong cộng đồng, ảnh hưởng rất lớn đến cách nhìn nhận – đánh giá và phản ứng với một thương hiệu. Ông đánh giá như thế nào về hiện tượng này?

“Tâm lý bầy đàn” là thuật ngữ được dùng để miêu tả tâm lý hùa theo đám đông thông qua những hành vi nhất định mà họ cho là đúng, nhưng bản thân không suy nghĩ một cách thấu đáo. Tâm lý hùa theo đám đông này rất dễ dẫn đến việc bị “dắt mũi” hoặc đưa ra những quyết định mù quáng hoặc thậm chí có thể bị lừa.

Tâm lý bầy đàn và hành vi bầy đàn được dùng để mô tả hành vi con người từ khi loài người bắt đầu hình thành các bộ lạc, sống quần tụ thành nhóm và cùng nhau trồng trọt hay buôn bán. Những đúc kết về tâm lý và hành vi bầy đàn lần đầu tiên được nhà tâm lý học xã hội Pháp Gustave Le Bon nghiên cứu, đưa vào cuốn sách “Tâm lý học đám đông” từ thế kỷ 19 và cho đến nay đây vẫn là tác phẩm kinh điển trong lĩnh vực tâm lý xã hội.

Ngày nay, mạng xã hội trên Internet cho phép người tham gia dễ dàng bày tỏ ý kiến, thái độ và hầu hết là không cần nêu rõ danh tính. Với sự phát triển nhanh chóng của mạng xã hội, tâm lý bầy đàn có một môi trường thuận lợi để phát triển khi con người cảm thấy an toàn hơn và dễ dàng hùa theo đám đông một cách vô thức. Lúc đó, sự tỉnh táo và lý trí của một số người có thể bị làn sóng bầy đàn của cả đám đông nhấn chìm một cách không thương tiếc. Điều này tất nhiên là sẽ tác động đến cách nhìn nhận và đánh giá chung về một thương hiệu.

* Như vậy người làm quản trị thương hiệu cần phải có những lưu ý như thế nào, thưa ông?

Chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh có kết nối Internet thì bất kỳ người nào cũng có khả năng trở thành một nhà xuất bản. Những trải nghiệm tốt hay xấu, những cảm giác vui hay buồn được chia sẻ dễ dàng với hàng nghìn người trên mạng xã hội chỉ với vài thao tác đơn giản. Vì vậy, doanh nghiệp hiện nay rất dễ dàng bị nêu tên, bị gắn với những thông tin không chính xác hoặc đôi lúc là bị bôi nhọ để rồi sau đó tất cả những người sử dụng mạng xã hội có dịp “hùa nhau” tạo ra một dư luận không đối với cho doanh nghiệp. Một nghiên cứu của trường Đại học Columbia năm 2016 cho biết, có tới 70% người dùng Facebook chỉ đọc tiêu đề trước khi bình luận về một bài viết và 60% chia sẻ đường dẫn bài viết mà thậm chí không hề đọc bài đó.

Tôi cho rằng, trong trường hợp xuất hiện dư luận, đặc biệt là theo hướng tiêu cực, người quản trị thương hiệu phải theo dõi chặt chẽ, xác định rõ nguồn gốc, phạm vi và mức độ nghiêm trọng của vấn đề để có hướng xử lý phù hợp. Có những trường hợp ban đầu chỉ là những vấn đề nhỏ, nhưng sau đó lại biến thành một cuộc khủng hoảng gây ảnh hưởng lớn đến uy tín của thương hiệu.

Có tới 70% người dùng Facebook chỉ đọc tiêu đề trước khi bình luận về một bài viết và 60% chia sẻ đường dẫn bài viết mà thậm chí không hề đọc bài đó.

Bên cạnh đó doanh nghiệp nên cân nhắc hành động ngay khi dư luận mới được hình thành vì lúc này việc ứng phó sẽ có hiệu quả hơn nhiều. Tùy vào bản chất của từng vụ việc, doanh nghiệp có thể xử lý ngay trên mạng xã hội hoặc bóc tách để xử lý ngoài đời thật. Đối với những thương hiệu lớn, doanh nghiệp cần có người chuyên trách lắng nghe và xử lý thông tin trên mạng xã hội.

* Thường thì những vấn đề, tình huống như thế nào sẽ khiến hiệu ứng bầy đàn trở nên nhạy cảm hơn và nhanh chóng lan truyền, thưa ông? Có phải những cảm xúc tiêu cực lan truyền nhanh hơn so với các cảm xúc tích cực, tại sao?

Người sử dụng trên mạng xã hội thường tương tác một cách cảm tính. Tôi vẫn nhớ Facebook, mạng xã hội với khoảng 1,8 tỷ người dùng hiện nay, đã từng bị chỉ trích nặng nề sau khi thừa nhận đã bí mật tiến hành một thí nghiệm tâm lý học vào năm 2014 trên gần 700.000 người để tìm hiểu về cách phản ứng của người dùng với những nội dung tích cực và tiêu cực hiển thị trên mạng xã hội. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, những cảm xúc được chia sẻ bởi những người dùng trên Facebook sẽ ảnh hưởng đến những người dùng khác. Đây là bằng chứng thực nghiệm cho thấy, sự lây lan về cảm xúc trên mạng xã hội là có thật.

Cuối năm ngoái, BuzzSumo, một công ty nghiên cứu về mạng xã hội, đã phân tích 15 bài được chia sẻ nhiều nhất trên Facebook trong năm 2016 với lượng chia sẻ từ 900.000 đến 5 triệu lượt/bài. Họ rút ra kết luận rằng, những bài được chia sẻ nhiều nhất là những bài thể hiện mạnh mẽ quan điểm cá nhân về một vấn đề cụ thể, đem đến niềm hy vọng và cảm hứng hoặc có nội dung đem lại sự mong muốn/khát vọng.

Nhìn chung những nội dung mang cảm xúc tích cực vẫn được chia sẻ nhiều hơn nội dung tiêu cực. Tuy nhiên, điều này cũng sẽ phụ thuộc vào thuật toán hiển thị nội dung trên dòng hiển thị thông tin (news feed) của Facebook vì hiện Facebook cá nhân hóa thông tin hiển thị dựa trên việc phân tích nhu cầu và sở thích của từng người đọc.

Xử lý khủng hoảng – xử lý cảm xúc đám đông

* Trong một bài viết của mình về xử lý khủng hoảng trên mạng xã hội, ông có đề cập đến việc dùng lý lẽ để giải thích đối với đám đông cuồng nộ là không hiệu quả. Ông có thể nói thêm về điều này?

Đúng như vậy! Quan điểm của tôi là xử lý khủng hoảng cũng là xử lý cảm xúc đám đông. Khi đám đông đã trở nên cuồng nộ thì việc giải thích bằng lý lẽ và dữ kiện giống như việc dùng nước dập đám cháy trong cái chảo đầy dầu mỡ. Lúc đầu thì tưởng là có hiệu quả, nhưng thực tế thì càng dập thì ngọn lửa lại càng bùng lên mạnh hơn.

Bạn nên nhớ rằng, con người không phải những chiếc máy vô cảm. Cảm xúc đóng vai trò rất quan trọng trong nhận thức và đưa ra các quyết định đúng hay sai. Quyết định của con người thường dựa trên những cảm xúc chứ không phải các dữ kiện. Hơn nữa, con người được định hướng bởi bản năng bầy đàn. Một phần là vì não con người tiến hóa để sinh tồn hơn là để giúp chúng ta tư duy chính xác về mặt số liệu. Do đó, chúng ta thường phản ứng tốt với những biến động xã hội hơn là những phân tích mang tính trí tuệ.

Điều này có nghĩa là kể cả khi suy nghĩ của một người là sai với dữ kiện thực tế thì người đó vẫn cảm thấy an toàn khi có cùng quan điểm với đám đông, chia sẻ tư tưởng với một nhóm người hơn là bị cô lập vì không có chung quan điểm.

Con người hay phản ứng tiêu cực hoặc thái quá khi họ bị người khác chứng minh là mình sai.

Một vấn đề nữa đó là bộ não con người luôn có xu hướng bảo vệ thế giới quan và bản sắc cá nhân. Khi thế giới quan này bị thách thức thì ngay lập tức tín hiệu nguy hiểm được thông báo tới bộ não và hệ thống tự bảo vệ được khởi động. Điều đó thể hiện rõ qua việc con người hay phản ứng tiêu cực hoặc thái quá khi họ bị người khác chứng minh là mình sai.

* Ông cũng đã nói rằng để không trở thành nạn nhân của hiệu ứng bầy đàn, thương hiệu nên tìm cách phá vỡ sự ngăn cách bầy đàn, tạo ra sự đồng cảm với công chúng, điều này có thể được thực hiện như thế nào?

Như tôi đã nói, có nhiều nghiên cứu cũng cho thấy khi con người tiếp nhận những dữ kiện trái ngược với niềm tin đã được xây dựng thì hiệu ứng phản tác dụng sẽ xảy ra. Con người thường bị thuyết phục bởi những niềm tin đã có trong tâm trí họ và do đó, sẽ phản ứng dữ dội với những điều đi ngược lại quan điểm đã được xây dựng.

Bên cạnh đó, một điều quan trọng là thiếu vắng sự thông cảm giữa các bầy đàn khác nhau. Khi con người được phân chia thành bầy đàn với sự khác nhau rõ rệt thì những người thuộc nhóm này sẽ thiếu sự thông cảm và thậm chí là vô cảm với những người thuộc nhóm khác. Bạn có thể thấy cũng là con người, nhưng chúng ta sẽ ít cảm thông hơn với những người thuộc chủng tộc hoặc các quốc gia khác. Một minh chứng rõ nét chính là chế độ nô lệ trong lịch sử hay các vụ thảm sát liên quan đến sắc tộc trên thế giới.

Trong trường hợp một thương hiệu không may trở thành tâm điểm của dư luận tiêu cực thì việc đầu tiên phải hiểu được nguồn gốc của dư luận và đặc điểm của các nhóm đang lan truyền dư luận. Điều quan trọng nhất là phải bằng mọi cách phá vỡ sự ngăn cách bầy đàn giữa thương hiệu và các nhóm này thông qua việc coi nhóm người đó thuộc “bầy đàn” của mình hoặc ngược lại qua những thông điệp và hành động phù hợp.

* Vậy có trường hợp nào ông thấy rằng, doanh nghiệp đã biết cách khai thác sức mạnh của tâm lý bầy đàn để củng cố niềm tin và thiện cảm về thương hiệu?

Chắc hẳn bạn còn nhớ vụ khủng hoảng của AirAsia khi chiếc máy bay mang theo hơn 160 người mất tích trên bầu trời Indonesia năm 2015. Với những thông tin đã được công bố, cá nhân tôi cho rằng thảm họa này nghiêm trọng hơn nhiều so với hai vụ tai nạn máy bay trước đó của hãng hàng không Malaysia Airlines do nguyên nhân xuất phát từ chính phi công AirAsia chứ không phải vì các lý do khách quan. Tuy nhiên, thực tế là Malaysia Airlines gần như bị phá sản trong khi AirAsia lại phục hồi một cách nhanh chóng và tiếp tục giành được sự ủng hộ của khách hàng.

Điểm khác biệt chính là cách giải quyết. Trong cả hai vụ tai nạn máy bay, Malaysia Airlines đều lúng túng, thể hiện sự thiếu trách nhiệm, thậm chí trong vụ MH370, họ còn bị cáo buộc cố tình che giấu thông tin. Điều này hoàn toàn đi ngược lại mong mỏi của gia đình các nạn nhân, cũng như sự mong đợi của công chúng.

Trong lúc đó, dù tai nạn của AirAsia là vụ thứ 3, có nghĩa là vẫn có thể chịu dư âm từ 2 vụ trước đó, nhưng cách xử lý khủng hoảng của họ cho thấy khả năng phản ứng rất nhanh và sự thấu hiểu tâm lý đám đông. Những thông tin liên quan đến vụ tai nạn được cập nhật liên tục với các ngôn ngữ khác nhau trên kênh thông tin chính thức của hãng, cùng với tình hình cứu nạn và thái độ sẵn sàng hợp tác của AirAsia cũng nhận được sự đồng tình của đông đảo dư luận.

Bên cạnh đó là thái độ của ông Tony Fernandes, CEO hãng AirAsia, khi không ngừng xuất hiện, bày tỏ cảm thông và xin lỗi về những mất mát. Sau vụ tai nạn ông này cũng ngay lập tức gặp gỡ và chia sẻ với gia đình của các hành khách và phi hành đoàn. Ngoài ra, AirAsia cũng đã nhanh nhạy trong việc đáp ứng các nhu cầu của các gia đình hành khách trong việc sắp xếp chỗ ở khách sạn và phương tiện vận chuyển trong lúc chờ đợi thông tin về chiếc máy bay này. Tất cả những điều đó đã giúp đem lại sự cảm thông cũng như dần dần lấy lại lòng tin của công chúng đối với hãng hàng không này.

Uber Việt Nam đã có CEO tạm thời thay ông Đặng Việt Dũng?

Theo thông tin từ “gã khổng lồ” trong ngành tuyển dụng LinkedIn, Uber đã bổ nhiệm tổng giám đốc tại Việt Nam từ tháng 10, sau khi ông Đặng Việt Dũng thôi làm CEO.

LinkedIn cho biết ông Tom White đang là nhà lãnh đạo tạm thời các hoạt động của Uber tại Việt Nam, bao gồm ở Hà Nội, Đà Nẵng và TP.HCM.

Trước khi đến nhậm chức tại Việt Nam, ông là tổng giám đốc miền Tây và miền Nam Australia từ tháng 2/2016 đến tháng 6/2017, với vai trò xây dựng chiến lược cho hãng tại khu vực này.

Ông được trao quyền quyết định về giá cả, mở rộng và ra mắt sản phẩm mới, tham gia trực tiếp vào các cuộc đàm phán chính sách của Uber với chính phủ và các bên liên quan khác.

Vị này tham gia Uber vào tháng 1/2017 với vai trò là quản lý nhu cầu (Demand Manager) sau đó được bổ nhiệm là lãnh đạo Uber tại thành phố Perth – thủ phủ và là thành phố lớn nhất của bang Tây Australia.

Thông tin được đăng tải trên trang LinkedIn. Ảnh chụp màn hình.

Trước đó, ông có hơn 4 năm giữ chức vụ Cố vấn chính sách cấp cao cho Chính phủ Tây Australia.

CEO trước đó của Uber là ông Đặng Việt Dũng đã rời Uber Việt Nam từ ngày 1/10 sau 3 năm gắn bó. Ông Dũng từng bỏ Đại học Bách khoa để theo học cử nhân của Trường Amherst College in Massachusetts (Mỹ) và học thạc sĩ tại trường Kinh doanh Harvard.

Tuy nhiên, năm 2014, ông Dũng tạm dừng việc học ở Harvard về Việt Nam làm CEO Uber.

Ông Tom White nhậm chức trong bối cảnh Uber đang phải đối mặt với nhiều thách thức tại Việt Nam. Tại thị trường Việt Nam, sau 3 năm gia nhập, Uber đã phát triển chóng mặt, trở thành “mối đe dọa” đối với taxi truyền thống.

Ông Đặng Việt Dũng, cựu CEO Uber Việt Nam. Ảnh: Uber.

Cuối tháng 9, trước thông tin Uber Việt Nam bị Cục Thuế TP.HCM truy thu thuế với số tiền 66,68 tỷ đồng, dư luận rộ lên thông tin Uber Việt Nam tạm dừng hoạt động. Người tiền nhiệm Đặng Việt Dũng phải lên tiếng khẳng định đó chỉ là tin thất thiệt.

Gần đây, cũng như Grab, Uber Việt Nam đang vấp phải sự phản đối của nhiều hãng taxi truyền thống. Cùng với đó, Sở Giao thông Vận tải TP.HCM đề nghị Uber, Grab tạm ngưng kết nối thêm xe mới.

Quyết liệt hơn, Hiệp hội Taxi Hà Nội kiến nghị dừng ngay thí điểm Uber, Grab tại Việt Nam trong tháng 9. Đơn vị này đề nghị ban hành ngay văn bản yêu cầu các địa phương dừng cấp phù hiệu xe tham gia thí điểm (hiện đã tăng đến 50.000 xe chỉ trong 18 tháng). Theo tính toán của hiệp hội này, mỗi ngày Uber đã chuyển ra nước ngoài khoảng 10 tỷ đồng.