Category Archives: News

1 tỉ đô la cho ý tưởng bán dao cạo râu

Ai cũng nghĩ thị trường dao cạo râu đã bão hòa, người mới không dễ gì chen chân vào. Thật thế ai cũng nghĩ một nhà đầu tư phải có tiền tỉ, đổ vào xây nhà máy, liên tục cải tiến công nghệ, xây dựng hệ thống phân phối, tuyển đội ngũ bán hàng rồi chi tiền quảng cáo… cũng chưa chắc bán được lưỡi dao nào so với các gã khổng lồ đã tại vị từ lâu như Gillette. Họ lại có lợi thế quy mô thị trường nên giá bán có thể ở mức thấp…

Thế nhưng có hai anh chàng Mark Levine và Michael Dubin lại nghĩ khác. Và chính cách hai anh này khởi nghiệp xây dựng công ty bán dao cạo râu (tuần trước Unilever mới bỏ ra 1 tỉ đô la Mỹ để mua lại) chứng tỏ mọi loại hình doanh nghiệp đã tồn tại trên thương trường cũng đều phải tìm cách “tái khởi nghiệp” nếu không muốn bị “ăn tươi nuốt sống” bởi làn sóng khởi nghiệp theo mô hình kinh doanh mới.

Dubin và Levine lập nên Dollar Shave Club vào năm 2011, ý tưởng cũng khá đơn giản. Giới mày râu mỗi tháng tiêu chừng 10-20 đô la mua dao cạo râu ở tiệm – nay ai muốn đơn giản lại tiết kiệm thì vào trang web của Dollar Shave Club, đăng ký mua dao cạo râu, có loại chỉ 1 đô la, có loại 6 đô la mỗi tháng. Đăng ký xong, cứ yên tâm hàng tháng dao cạo sẽ tự động được gửi đến nhà.

Quảng cáo thì hai anh sử dụng kênh quảng cáo miễn phí trên YouTube và nhờ Dubin biết dàn dựng một video clip vui nhộn, cái quảng cáo kêu gọi mọi người đừng tiêu tốn 20 đô la mỗi tháng mà lại phải nhớ vào tiệm để mua, cứ bỏ ra 1 đô la (cộng thêm 2 đô la tiền vận chuyển) là có dao xài thoải mái được trên 23 triệu lượt người xem cho đến nay.

Theo tường thuật trên tờ The New York Times, chỉ trong vòng 24 giờ, cái “câu lạc bộ” này nhận được 12.000 đơn đặt hàng và chỉ trong vòng vài năm giúp hai anh chiếm đến 8% thị phần dao cạo râu, doanh số đạt 240 triệu đô la. Còn theo Financial Times thì thị phần của Dollar Shave Club trong loại dao cạo thay phần lưỡi lên đến 15% và hơn 50% thị phần dao cạo râu bán qua mạng.

Hiện Dollar Shave Club có hơn 3 triệu khách hàng đăng ký mua hàng thường xuyên nhưng toàn công ty chỉ có 190 nhân viên. Bởi dao thì hai anh thuê hãng Dorco ở Hàn Quốc sản xuất; phân phối lúc đầu tự làm nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đã “outsource” cho một công ty khác ở Kentucky. Dollar Shave Club làm gì? – thiết kế, tiếp thị, dịch vụ khách hàng và nghĩ ra các món hàng khác phục vụ quý ông tận nhà như dao cạo râu.

Nay Unilever mua lại Dollar Shave Club giá 1 tỉ đô la, hai anh Mark Levine và Michael Dubin sau năm năm khởi nghiệp trở thành triệu phú.

Ngày trước hai anh làm chuyện đó được không? Ắt là khó bởi ngày trước tự mình xây dựng nền tảng hạ tầng phục vụ thông suốt 3 triệu khách hàng qua mạng Internet là chuyện khó cho một công ty khởi nghiệp.

Nay thì câu lạc bộ này thuê Amazon Web Services. Ngày trước rao bán dao cạo râu mà không có một mảnh đất làm nhà máy, ắt sẽ bị coi là lập dị hay thậm chí lừa đảo. Nay Dorco mà không thỏa mãn điều kiện hai anh đặt ra, họ có thể bỏ đi nơi khác thuê hãng khác gia công dễ dàng.

Sản xuất, vì thế, không còn mang nghĩa sản xuất như suy nghĩ truyền thống nữa. Sản xuất chỉ là một khâu rất nhỏ và thường là khâu vất vả nhất, ít lợi nhuận nhất.

Ứng cử viên Tổng thống Mỹ Donald Trump thường kêu gào phải bắt Apple sản xuất iPhone tại Mỹ chứ không cho làm ở Trung Quốc nữa. Tạp chí MIT Technology Review đưa ra hai kịch bản: giả dụ Apple vẫn đặt làm linh kiện iPhone khắp toàn cầu nhưng đem về lắp ráp ở Mỹ, giá một chiếc iPhone 6 Plus có thể sẽ tăng thêm 5%; nếu sản xuất toàn bộ linh kiện ở Mỹ, giá sẽ tăng thêm chừng 100 đô la.

Vấn đề ở chỗ chi phí cho nhân công chỉ chiếm một phần rất nhỏ (chừng 4-10 đô la) còn lại chi phí tăng do năng lực sản xuất của các công ty Mỹ không còn cạnh tranh nổi với các đối thủ khắp thế giới nữa. Và suy cho cùng, Apple vẫn đang hưởng phần lợi lớn nhất chứ không phải 7 nhà máy lắp ráp hay 766 nhà cung ứng linh kiện. Chiếc iPhone 6s Plus giá bán 749 đô la chỉ tốn chừng 230 đô la để sản xuất.

Giờ chúng ta hãy nhìn lại Dollar Shave Club – 1 tỉ đô la mà Unilever bỏ ra mua lại, đâu có xu nào lọt vào tay nhà sản xuất thật sự là Dorco ở Hàn Quốc? Cũng chẳng có xu nào cho nhà phân phối ở Kentucky. Hóa ra quả ngọt của mô hình mới chỉ sẽ chảy vào túi một số ít người có những kỹ năng thích hợp với nền kinh tế số (cũng không nhất thiết là kỹ năng thiết kế – Gillette năm ngoái kiện Dollar Shave Club về cáo buộc ăn cắp kiểu dáng), nó không chảy về túi công nhân, những người lao động tay chân. Bên cạnh người khởi nghiệp, tiền cũng chảy về các nhà đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư, thường đã giàu nay càng giàu hơn.

Hiện nay những người lao động này đang sống ở những nước đang phát triển nên dù sao cũng chưa tạo ra hố sâu ngăn cách và bất mãn lớn. Nhưng ở các nước phương Tây sự bất mãn đã hiển hiện và nếu các công ty nghe lời Donald Trump đem sản xuất về lại nước Mỹ, cái khoảng cách thu nhập giữa người có ý tưởng, ngồi vẽ vời ý tưởng và người phải cong lưng hiện thực hóa cái ý tưởng đó ắt sẽ làm dân lao động Mỹ càng bất mãn hơn.

Cái khoản người tiêu dùng tiết kiệm được chính là lấy đi hàng ngàn việc làm ở khâu bán lẻ, phân phối nên mô hình mới càng thành công, việc làm càng bị mất đi.

Quay trở lại với các doanh nghiệp truyền thống, đối đầu với các ý tưởng khởi nghiệp có khả năng xáo động lãnh vực yên bình của họ, tất cả đều phải chuẩn bị một tinh thần “tái khởi nghiệp”, tức nhìn lại cả chu trình hoạt động của mình để tái cơ cấu lại.

Hướng tái cơ cấu là gì? Trước đây các hãng truyền thống gầy dựng cơ ngơi từ từ, chiếm lĩnh thị phần dần dần và vừa kinh doanh vừa tái đầu tư để phát triển. Họ thường phục vụ một thị trường nhất định nào đó và tìm mọi lợi thế để củng cố vị thế trong thị trường này. Ngày nay các công ty kiểu Dollar Shave Club nhắm tới số đông, lãi ít hoặc thậm chí không có lãi nhưng ào ạt chiếm lĩnh trận địa theo kiểu lấy thịt đè người. Họ được hậu thuẫn bởi các dòng tiền khổng lồ đang chạy khắp nơi tìm cơ hội như Dollar Shave Club để rót vào.

Đó là cách các nhân vật như Mark Levine và Michael Dubin nghĩ về “khởi nghiệp” chứ không chung chung như nhiều người đang mơ hồ.

 

Ngành bán lẻ “khát” nhân sự cấp quản lý

Sự xuất hiện thêm nhiều thương hiệu bán lẻ cộng với việc mở chuỗi khiến nhân sự ngành này càng trở nên thiếu hụt. Điều đáng quan tâm là vẫn chưa có nơi đào tạo nhân sự bài bản cho lĩnh vực này.

Tìm kiếm nhân lực cho ngành bán lẻ đang trở nên sôi động khi các doanh nghiệp (DN) bán lẻ liên tục mở thêm các điểm bán. Cụ thể, ngày 28/7 tại Nha Trang, Lotte Mart thứ 13 đã chính thức hoạt động. Đầu tháng 7, Trung tâm Điện máy và Nội thất Thiên Hoà đã khai trương trung tâm thứ 7 tại TP.HCM.

Vào giữa tháng 6/2016, Aeon đã mở trung tâm thương mại thứ 4 trong kế hoạch mở 20 trung tâm thương mại tại Việt Nam. Trước đó, trong tháng 4, Trần Anh cũng đã khai trương đại siêu thị tại Thái Bình. Theo kế hoạch công bố từ đầu năm, trong quý III/2016, DN này sẽ tiếp tục đưa vào hoạt động 5 đại siêu thị. Điện máy Xanh thì liên tục mở siêu thị và hiện 119 siêu thị của thương hiệu này đã có mặt tại 63 tỉnh, thành trong cả nước.

Thiếu hụt nguồn cung

Sự sôi động của thị trường khiến nhân lực của ngành này trở nên thiếu hụt. Số liệu từ Công ty L&A, nhu cầu tuyển dụng các vị trí quản lý ngành hàng, mua hàng, dịch vụ khách hàng, kiểm soát tài chính… tăng nhanh so với cùng kỳ năm trước. Lý do cho sự tăng nhanh này là việc mở rộng các điểm bán đang “hút” một lượng không nhỏ người lao động, đặc biệt là ở cấp quản lý.

Số liệu này cũng trùng với kết quả nghiên cứu nhu cầu tuyển dụng lao động tại Việt Nam do Navigos Search công bố hồi tháng 1/2016. Theo đó, xu hướng mở các cửa hàng tiện ích ngày càng nhiều do vậy cơ hội cho các vị trí mới tốt nghiệp đại học cũng sẽ dồi dào hơn. Các vị trí quản lý trong ngành hàng tiêu dùng nhanh tiếp tục được tìm kiếm vì nhân sự ngành này vẫn luôn thiếu hụt. Tại TP.HCM, ngành chăm sóc sức khỏe, ngành tiêu dùng, bán lẻ, tài chính – ngân hàng… trong top 10 ngành hàng trả lương cao nhất.

2015 là năm mà ngành bán lẻ chứng kiến sự thay đổi nhân sự nhiều nhất so với trước. Trong đó, sự ra mắt của hệ thống bán lẻ VinMart đã thu hút một lượng không nhỏ quản lý cấp trung và cao từ các đơn vị khác. Theo một đại diện siêu thị tại TP.HCM, hàng loạt vị trí cấp trung và cao của các DN bán lẻ được “chiêu dụ” về VinMart với mức lương cao gấp đôi so với mức mà họ đang hưởng.

Nghiên cứu của Talentnet công bố hồi năm 2015 cho thấy, nhu cầu tuyển dụng cao của ngành bán lẻ rơi vào nhóm nhân sự cấp cao và trung cấp (từ vị trí quản lý trở lên). Sự thiếu hụt nhân sự gần như có ở tất cả các lĩnh vực như quản lý mua hàng, quản lý ngành hàng, dịch vụ khách hàng…

Chia sẻ về vấn đề này, ông Trần Tấn Hoàng Hậu – Giám đốc Marketing Trung tâm Điện máy và Nội thất Thiên Hòa cho rằng, ngành bán lẻ đang thiếu nhân sự trầm trọng, nhất là nhóm quản lý cấp trung và cao cấp. Nguyên nhân chính là tại Việt Nam hiện nay không có trường đào tạo nhân sự về ngành bán lẻ. Hơn nữa, ngành bán lẻ đòi hỏi rất cao về độ nhạy bén cũng như khả năng hiểu rõ thị trường, nhưng để đáp ứng những yêu cầu này, phải có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành.

Chưa có nơi đào tạo

Thực tế cho thấy, các trường đại học hiện chưa có chuyên khoa đào tạo ngành bán lẻ. Muốn có đội ngũ nhân sự giỏi, các DN bán lẻ phải tự đào tạo. Ông Hồ Quốc Nguyên – Giám đốc Quan hệ Công chúng Big C Việt Nam cho rằng, hiện vẫn chưa có trường đại học, cao đẳng đào tạo chính quy, bài bản về ngành bán lẻ. Hầu hết những quản lý cấp cao thành công trong ngành bán lẻ đều từ quá trình học hỏi, tích lũy kinh nghiệm qua thực tế làm việc tại các DN bán lẻ lớn tại Việt Nam.

Ngay như Saigon Co.op, đơn vị bán lẻ có mạng lưới bán lẻ lớn nhất Việt Nam (82 siêu thị Co.opmart, 2 đại siêu thị Co.opXtra, 96 cửa hàng Co.op Food) nhưng cũng phải tự đào tạo. Các nhân sự giỏi, các lãnh đạo của Saigon Co.op đều được đào tạo từ thực tế tại các siêu thị Co.opmart và các chương trình đào tạo của Saigon Co.op cũng như qua các chuyến đào tạo ngắn ngày ở nước ngoài.

Ông Võ Hoàng Anh – Giám đốc Marketing Saigon Co.op cho biết, để có nhân sự đáp ứng được yêu cầu, Saigon Co.op đã thành lập trung tâm đào tạo với đội ngũ giảng viên riêng. Tất cả 15.000 nhân viên của Saigon Co.op, từ nhân viên bán hàng, thu ngân, dịch vụ… cho đến quản lý cấp cao đều qua chương trình đào tạo của trung tâm. Các nhân sự được tuyển dụng trước khi trở thành nhân viên chính thức phải qua các khóa đào tạo tại trung tâm này (thời gian đào tạo tùy theo từng vị trí).

Trong khi đó, để có đội ngũ nhân sự giỏi, từ năm 2012, Hệ thống siêu thị Big C đã kết hợp với các viện đào tạo tổ chức các khóa học chuyên ngành bán lẻ. Chương trình đào tạo của DN này được thực hiện với hai hình thức xen kẽ vừa học lý thuyết vừa thực hành nghiệp vụ và đảm trách một vị trí quản lý tại siêu thị hay bộ phận hỗ trợ.

Để chiêu mộ được đội ngũ học viên, Big C đài thọ tất cả kinh phí, từ đào tạo, nhận trợ cấp thực tập hàng tháng, trợ cấp tiền ăn trưa, trợ cấp chi phí đi lại, chi phí lưu trú cho các ứng viên từ các tỉnh vào học tại TP.HCM, hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn 24/24 và một số chế độ ưu đãi khác. Thế nhưng, mỗi khóa học (1 năm), Big C chỉ tuyển chọn được khoảng 40 – 50 người đúng yêu cầu.

Ông Võ Hoàng Anh cho rằng, lương là yếu tố đầu tiên để người lao động quyết định nơi làm việc nhưng để họ gắn bó thì cần nhiều yếu tố khác như chế độ phúc lợi, môi trường làm việc, khả năng thăng tiến… Saigon Co.op đã xác định nhân lực là vấn đề quan trọng nhất nên đầu tư mạnh cho khâu này. Đó cũng chính là lý do để Saigon Co.op cấu trúc lại nhiều mặt, trong đó, cải cách cơ chế lương, sắp xếp lại công việc cho hợp lý hơn… sẽ được áp dụng trong thời gian ngắn sắp tới.

3 kiểu ứng viên dễ bị loại ngay từ vòng đầu

Có muôn vàn lý do khiến một ứng viên không qua được một, thậm chí tất cả các vòng tuyển dụng của một công ty. Tuy nhiên, chưa nói tới các kỹ năng, kiến thức chuyên môn hay kinh nghiệm làm việc, nếu mắc phải các lỗi cơ bản sau thì bạn sẽ rất khó lọt qua vòng sơ tuyển của nhà tuyển dụng.

Thiếu tự chủ

Một biểu hiện dễ nhận thấy ở ứng viên thiếu tự chủ là tại phần thông tin liên lạc trong CV hay hồ sơ ứng tuyển, thay vì để số điện thoại và email cá nhân, họ lại để lại thông tin liên lạc của người thân, mặc dù trên thực tế họ có sử dụng cả 2 phương tiện liên lạc này.

Một người chưa biết làm chủ cơ hội được làm việc của mình, không sẵn sàng nhận cuộc gọi, email mời tham dự vòng tuyển dụng từ nhà tuyển dụng thì rất khó để nói rằng họ đã thực sự mong muốn được đi làm, hay có thể tự quyết định việc mình muốn làm.

Không quan tâm tới cơ hội của chính mình

Được mời tham gia phỏng vấn tuyển dụng đồng nghĩa với việc bạn đang tới gần hơn với cơ hội của mình, bởi không phải CV hay hồ sơ xin việc nào cũng đủ tiêu chuẩn để qua được khâu xét duyệt trên giấy. Tuy nhiên, có nhiều ứng viên lại để vuột mất cơ hội đi tiếp vào vòng trong chỉ vì khi tiếp xúc với nhà tuyển dụng, họ không thể nhớ chính xác mình đã ứng tuyển vào vị trí gì, không nhớ nổi yêu cầu về công việc mà mình ứng tuyển.
Với kiểu ứng viên đó, nhà tuyển dụng sẽ đặt ra câu hỏi liệu họ có đủ niềm đam mê với công việc này hay không khi chính bản thân họ không quan tâm một cách đầy đủ tới những gì mình đang làm?

Không sẵn sàng với lựa chọn của mình

Không chắc chắn muốn làm tại vị trí mình đã ứng tuyển, hỏi sang cả vị trí khác và phân vân muốn chuyển sang vị trí khác vì lo sợ không trúng tuyển ở vị trí hiện tại… là những “điểm trừ” mà nhiều người khi đi xin việc mắc phải.

Câu hỏi đặt ra ở đây là: Có phải bạn đang tìm việc chỉ với duy nhất một lý do là bạn cần có một công việc tạm thời, thay vì có đôi chút sự thích thú và mối quan tâm tới nó? Liệu bạn có đủ nhiệt huyết với công việc mà chính bản thân cũng không dám chắc mình yêu thích và hiểu về nó?

6 tháng, Vingroup lãi 3.000 tỷ đồng, đạt 98% kế hoạch năm

6 tháng đầu năm, Vingroup ghi nhận doanh thu tăng gấp đôi, còn lợi nhuận tăng gấp 4 lần so với cùng kỳ.

Tập đoàn Vingroup (VIC) vừa công bố kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2016.

Cụ thể, tổng doanh thu thuần hợp nhất ghi nhận trong giai đoạn 6 tháng đầu năm 2016 là 24.197 tỷ đồng, tăng gấp gần 2 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Vingroup cũng ghi nhận lợi nhuận sau thuế đạt 2.926 tỷ đồng, tăng gấp hơn 4 lần.

So với kế hoạch đã được thông qua tại Đại hội Cổ đông thường niên năm 2016, Tập đoàn đã hoàn thành 54% kế hoạch doanh thu và 98% kế hoạch lợi nhuận sau thuế.

Riêng trong quý II, doanh thu chuyển nhượng bất động sản đạt 4.533 tỷ đồng, tăng 31%. Doanh thu cho thuê TTTM/Văn phòng và doanh thu đến từ mảng kinh doanh khách sạn, du lịch và vui chơi giải trí cũng tăng mạnh lần lượt 39% và 59%. Hai mảng này góp tương ứng 735 tỷ đồng và 1.102 tỷ đồng vào tổng doanh thu quý II của Vingroup.

Trong khi đó, doanh thu từ hoạt động giáo dục đạt 147 tỷ đồng, tăng 58%. Còn doanh thu cung cấp dịch vụ bệnh viện và các dịch vụ liên quan đạt 263 tỷ đồng, tăng 53%.

Đáng chú ý, Vingroup ghi nhận mức doanh thu tăng đột biến từ mảng bán hàng tại siêu thị và cửa hàng tiện ích với 2.465 tỷ đồng, tăng 226% so với cùng kỳ năm trước.

Tại ngày 30/06/2016, tổng tài sản Vingroup đạt 159.280 tỷ đồng, tăng hơn 13.000 tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu đạt 44.560 tỷ đồng, tăng gần 7.000 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2015.

Thương mại điện tử Anh dự kiến đạt hơn 100 tỷ USD

Ngày càng nhiều người mua hàng qua điện thoại thông minh giúp doanh số bán hàng trực tuyến tại Anh dự kiến lên 102 tỷ USD năm nay.

Kết quả nghiên cứu từ comScore MobiLens cho thấy sức mua qua thương mại di động (m-commerce) tại Anh cao hơn nhiều so với một số quốc gia khác ở châu Âu. Cụ thể 33,8% người dùng smartphone tại Anh từ 13 tuổi trở lên thực hiện giao dịch qua điện thoại. So với Tây Âu thì mua sắm qua điện thoại thông minh ở Anh phổ biến hơn.

Báo cáo của comScore MobiLens cũng chỉ ra rằng người dân xứ sở sương mù có thói quen chọn mua sản phẩm thông qua các ứng dụng di động với tỷ lệ 59,3%. Trong khi đó con số này ở Đức là 52,1%, những nước khác trong EU 5 (gồm Đức, Pháp, Anh, Italy, Tây Ban Nha) chỉ 40%.

Để đáp ứng thị hiếu mua sắm trên di động, các nhà bán lẻ cũng tăng cường trải nghiệm cho khách hàng, cải tiến ứng dụng cũng như giao diện website tương thích cao với smartphone.

eMarketer ước tính 57% chủ sở hữu điện thoại thông minh ở Anh sẽ thực hiện ít nhất một giao dịch qua smartphone trong năm 2016, tăng 55% so với năm 2015. Điều này sẽ thúc đẩy doanh số bán lẻ trực tuyến tại quốc gia này vượt mức 67 tỷ bảng, tương đương 102 tỷ USD trong năm nay.