Tập đoàn Dầu khí có tân Chủ tịch

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Quốc Khánh, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) kiêm thực hiện nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng Thành viên, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN. Quyết định có hiệu lực từ ngày 12-1.

Ông Nguyễn Quốc Khánh sinh năm 1960, quê quán Hà Tĩnh; tốt nghiệp kỹ sư địa vật lý chuyên ngành thăm dò địa chất dầu khí tại Đại học Dầu khí Baku (Liên Xô cũ).

Ông Nguyễn Quốc Khánh đã có nhiều năm công tác tại PVN, từng đảm nhiệm các chức vụ: Phó Tổng Giám đốc Công ty Thăm dò khai thác Dầu khí (PVEP); Tổng Giám đốc Công ty Liên doanh Dầu khí Mê Kông; Tổng Giám đốc Công ty Chế biến và Kinh doanh sản phẩm Dầu mỏ (PDC); Tổng Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PV OIL); Phó Tổng Giám đốc PVN từ tháng 7-2009. Từ tháng 11-2014, ông được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc PVN.

Năm 2015, dù sản lượng dầu khí khai thác của PVN dự kiến tăng 3,6% nhưng tập đoàn này dự báo tổng doanh thu chỉ đạt 555.000 tỉ đồng, giảm gần 23% so với kế hoạch doanh thu gần 719.000 tỉ đồng do giá dầu thô trên thị trường thế giới giảm mạnh. Doanh thu giảm mạnh khiến nộp ngân sách của PVN cho cả năm 2015 cũng chỉ ước đạt 115.000 tỉ đồng, giảm mạnh so với kế hoạch nộp ngân sách 159.000 tỉ đồng của năm 2015.

Trước đó, năm 2014, PVN đạt tổng doanh thu 745.500 tỉ đồng, nộp ngân sách nhà nước đạt 178.100 tỉ đồng, tổng lợi nhuận sau thuế đạt 46.000 tỉ đồng.

Tìm việc ngành dầu khí / Oil & Gas Jobs in Vietnam

Cặp song sinh ngân hàng và bất động sản

Ngân hàng và bất động sản được ví như một cặp “song sinh” do mối quan hệ mật thiết và chặt chẽ với nhau. Doanh nghiệp bất động sản xem ngân hàng là “túi oxy”, là giá đỡ trong quá trình phát triển dự án, trong khi đó ngân hàng coi doanh nghiệp bất động sản như một khách hàng tiềm năng. Do đó, rất nhiều trường hợp đằng sau mỗi “đại gia” bất động sản là một ngân hàng và ngược lại. Điều này dẫn đến hệ quả là, khi thị trường bất động sản đóng băng nợ xấu bất động sản tăng vọt.

Năm 2015 ghi nhận kinh tế tăng trưởng cao nhất trong 8 năm trở lại đây. Đây cũng là năm các chỉ số kinh tế vĩ mô khá tốt với lãi suất trên thị trường ở mức thấp và nợ xấu giảm mạnh. Thị trường bất động sản có sự phục hồi ấn tượng với hàng loạt dự án được khởi công mới hoặc khởi động lại. Giá cả và giao dịch hầu hết phân khúc bất động sản đề tăng mạnh.

Bên cạnh những nhận định lạc quan về thị trường, không ít người cho rằng nền kinh tế, thị trường tài chính và bất động sản vẫn chưa có những bước phục hồi vững chắc. Thậm chí có người cho rằng bất động sản đang phát triển nóng và có thể tạo ra bong bóng bất động sản trong tương lai. Xung quanh mối quan hệ giữa thị trường bất động sản và ngân hàng, CafeLand có cuộc trao đổi trực tiếp với tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng để hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Ông đánh giá thế nào về việc tái cấu trúc và xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng trong thời gian qua?

Việc xử lý nợ xấu trong thời gian qua đã được tiến hành rất mạnh mẽ. VAMC đã đẩy mạnh việc mua lại nợ xấu của các ngân hàng và bản thân các ngân hàng cũng chủ động xử lý nợ xấu bằng cách thu hồi tài sản bảo đảm và sử dụng quỹ dự phòng nợ xấu. Tuy nhiên, dù có những cố gắng nhưng tổng thể nợ xấu vẫn chưa được xử lý một cách hiệu quả.

Theo thông tin công bố chính thức, tổng nợ xấu của ngành ngân hàng hiện nay dưới 3%, thế nhưng đây chỉ là con số trên sổ sách. Số nợ xấu trên chưa bao gồm hơn 200.000 tỷ đồng đã được VAMC mua lại, mà thực ra VAMC chỉ tạm giữ, còn thực tế nó vẫn thuộc về ngân hàng. Do đó, khi cộng món nợ này vào tỷ lệ nợ xấu không phải là 3% mà con số nợ xấu trên thực tế cao hơn rất nhiều.

Năm 2015 là năm cuối thực hiện đề án tái cấu trúc ngân hàng và thực tế đã thu được một số thành công. Trước kia Việt Nam có trên 40 ngân hàng thì hiện nay chỉ còn 34 do một số ngân hàng đã được sáp nhập, trong đó ba ngân hàng là Ngân hàng Xây dựng (VNCB, nay là CBBank), Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank) và Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn Cầu (GP.Bank) được mua lại với giá 0 đồng.

NHNN đã giải quyết những ngân hàng yếu kém và sáp nhập họ. Đến nay hệ thống ngân hàng đã tương đối lành mạnh hơn lúc trước. Thế nhưng, nội tại cũng còn rất nhiều vấn đề cần phải quan tâm. Đặc biệt là các ngân hàng trước kia được xem là top đầu trong cổ phần như Eximbank, DongAbank, Sacombank… hiện đang nằm trong giai đoạn tái tổ chức và chuyển đổi chứ thật chưa thực sự ổn định.

Trong đó, đáng chú ý là DongAbank vẫn trong vòng kiểm soát đặc biệt, và Eximbank có quá nhiều vấn đề cần xử lý trong kỳ đại hội cổ đông vừa qua. Bên cạnh đó, cũng còn có nhiều ngân hàng hoạt động thiếu hiệu quả. Nói chung về tái cơ cấu, mặc dù nỗ lực rất lớn nhưng ngành ngân hàng vẫn chưa đi vào một quỹ đạo thực sự ổn định và lành mạnh, còn cần phải nhiều điều chỉnh mạnh mẽ hơn nữa.

Sự phục hồi của thị trường bất động sản có giúp giảm nợ xấu và làm cho hệ thống ngân hàng tích cực hơn không, thưa ông?

Nợ xấu giảm do có trường hợp các ngân hàng đã thu hồi nợ, thu hồi các tài sản thế chấp bằng bất động sản. Ngân hàng xử lý nợ xấu bằng cách bán bất động sản thế chấp. Tuy nhiên, nợ xấu thực tế vẫn còn tồn đọng rất nhiều.

Nhiều người vui mừng khi thấy thị trường bất động sản đi lên, tính thanh khoản cao và cho rằng, bây giờ là lúc xử lý nợ xấu rất tốt. Tuy nhiên, theo quan sát của tôi trong nghành ngân hàng qua nhiều chu kỳ phát triển của thị trường bất động sản thì thực tế không chứng minh điều đó. Thị trường bất động sản càng tốt thì xử lý nợ xấu càng khó vì vào thời kỳ sốt nóng người vay tiền thế chấp bằng bất động sản hi vọng bán được nhà giá cao nên họ không để cho ngân hàng đến siết nợ và kỳ vọng sẽ bán không những trả hết nợ mà còn thu thêm tiền.

Theo kinh nghiệm của tôi, thị trường bất động sản xuống dốc là chỗ xử lý nợ xấu nhanh nhất. Tại vì, lúc đó giá trị của tài sản xuống, người ta “bỏ của chạy lấy người” nên dễ dàng thu hồi; còn lúc bất động sản lên, ngân hàng vui nhưng người sở hữu bất động sản sẽ không chịu nhả ra. Do đó, không hẳn thị trường bất động sản tốt lên là nợ xấu sẽ được giảm xuống.

Theo kinh nghiệm của ông thì cách xử lý nợ xấu ngân hàng trên thế giới được tiến hành như thế nào?

Ở Mỹ, một ngân hàng có thể xử lý nợ xấu hay những tài sản bảo đảm qua hai cách. Cách thứ nhất, không qua phương tiện tư pháp (được gọi là “non-judicial”) tức luật pháp cho phép các ngân hàng có thể xử lý tài sản bảo đảm không cần phải qua bất cứ một tòa án nào. Ngân hàng có quyền bán đấu giá, phát mãi rất nhanh chóng tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Cách thứ hai là thông qua hệ thống tòa án (được gọi là “judicial”). Với hệ thống tư pháp hiệu quả, việc xử lý tranh chấp giữa ngân hàng và người vay tiền thường diễn ra nhanh và hiệu quả. Điều này giúp việc thu hồi nợ diễn ra dễ dàng, nhanh và chi phí hợp lý.

Ở Việt Nam, luật pháp cũng quy định quyền của ngân hàng xử lý tài sản thế chấp, nhưng không quy định một cách chặt chẽ và nhiều qui định chồng chéo và vô hiệu hóa lẫn nhau. Luật pháp Việt Nam không bảo vệ tốt người cho vay và không cho phép ngân hàng đơn phương xử lý tài sản đảm bảo.

Ở Việt Nam, lúc ra tòa cũng khó khăn hơn khi tòa án lại chia thành hai khâu xử án và thi hành án. Trong đó, thi hành án gặp rất nhiều vướng mắc, không loại trừ khả năng có sự tham nhũng ở trong đó. Do vậy, khâu thi hành án trở nên trì trệ, không hiệu quả dẫn đến việc xử lý tài sản đảm bảo, thu hồi nợ ở Việt Nam rất khó khăn và kéo dài.

Nguyên nhân khiến việc tái cấu trúc chưa mang lại hiệu quả có phải do NHNN thực hiện chưa đúng biện pháp giám sát hay do đặc thù ngành ngân hàng Việt Nam có quá nhiều bất cập?

Tôi cho rằng kết quả thực trạng đó xuất phát từ cả 2 nguyên nhân trên. Cơ quan quản lý muốn tiến đến một hệ thống ngân hàng ổn định, lành mạnh và theo xu hướng của thông lệ quốc tế, nhưng nhiều ngân hàng của chúng ta đang hoạt động theo mô hình “gia đình trị” nên không dễ dàng. Nhiều lãnh đạo xem ngân hàng là của riêng và tận dụng ngân hàng như là sân sau để tài trợ dự án của mình. Họ không ý thức hoặc cố tình quên rằng ngân hàng không chỉ thuộc về các cổ đông mà còn là tài sản của quốc gia. Do vậy, việc tái cấu trúc ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn do có quá nhiều rào cản.

Nhiều quốc gia trên thế giới luôn xem ngân hàng như bộ tuần hoàn mang máu xuống cho tất cả các thành phần kinh tế nên họ có chính sách hữu hiệu để bảo vệ ngân hàng đồng thời dành nhiều ưu tiên cho ngành ngân hàng. Ở Việt Nam, ngành ngân hàng cũng được Nhà nước và trực tiếp là NHNN “bảo vệ” với khá nhiều quy định thuận lợi mà chỉ ngân hàng mới có được, chẳng hạn chỉ có ngân hàng mới có quyền huy động vốn của dân chúng. Thế nhưng thực tế “ông chủ” một số ngân hàng lại lợi dụng triệt để những đặc quyền này để trục lợi. Những vụ kiện và điều tra gần đây đã chứng tỏ một số ngân hàng huy động vốn của dân chúng để đầu tư vào những dự án bất động sản của các công ty con của các ông chủ ngân hàng.   Vậy muốn cải tổ thì bản thân các “ông chủ” ngân hàng cần chủ động thay đổi quan niệm quản trị và điều hành ngân hàng và việc thực thi các quy định cũng phải được thực hiện một cách nghiêm khắc hơn nữa.

Đối với các cơ quan quản lý, bộ phận thanh tra giám sát ngân hàng cần tăng cường năng lực thanh tra và nhân sự. Hệ thống thanh tra ngân hàng nên chuyển từ thanh tra tập trung vào tuân thủ sang thanh tra rủi ro và xếp hạng các ngân hàng theo một hệ thống tính điểm minh bạch và dễ hiểu, rồi trên cơ sở hệ thống xếp hạng đó mà các ngân hàng có thể bị áp những mức phí khác nhau cho bảo hiểm tiền gửi. Hiện nay, một hệ thống tính điểm và xếp hạng như thế và từ đó có những mức phí khác nhau cho bảo hiểm tiền gửi chưa được thiết lập ở Việt Nam. Công tác đào tạo cán bộ thanh tra cũng là một khâu rất quan trọng, để loại trừ những hiện tượng tiêu cực của các cán bộ thanh tra.

Ngân hàng được xem là có mối liên hệ mật thiết với bất động sản, điều này thể hiện qua cơ chế nào?

Nói chung, ngân hàng và bất động sản luôn luôn đi cùng với nhau, không chỉ ở Việt Nam mà tại nhiều nước trên thế giới. Thực tế, bất động sản là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn cho ngân hàng vì cho vay bất động sản, ngân hàng quản lý và kiểm soát được tài sản đảm bảo, kiểm định được giá trị những tài sản đảm bảo và doanh nghiệp bất động sản lại sẵn sàng trả lãi suất cao. Khi cho vay bất động sản ngân hàng nắm đằng chuôi nên cảm thấy rất an tâm, nhất là với những khách hàng quen biết và có mối quan hệ với ngân hàng nhiều năm. Tuy nhiên, cho vay bất động sản sẽ trở nên rủi ro khi thị trường lao dốc, lúc đó giá trị tài sản sẽ xuống rất thấp và việc thu hồi vốn vay gặp nhiều khó khăn.

Một thực tế là các công ty bất động sản thường không có đủ nguồn lực để tự mình làm dự án. Họ phải vay vốn ngân hàng hoặc huy động từ người mua để thực hiện dự án. Nếu không có vốn từ ngân hàng thì hầu như các dự án bất động sản đều không thể triển khai. Do phụ thuộc lớn vào vốn vay nên nếu thị trường tài chính có biến động như lãi suất cao, chính sách tiền tệ thắt chặt hoặc tín dụng cho bất động sản bị hạn chế thì bất động sản lập tức gặp khó khăn.

Bên cạnh cơ chế ở trên thì quan hệ giữa bất động sản và ngân hàng còn có mối quan hệ rất đặc biệt. Tức là nhiều “ông chủ” ngân hàng có công ty bất động sản và ngược lại. Theo quy định của NHNN thì ngân hàng không được trực tiếp đầu tư vào bất động sản, việc vay vốn của cổ đông ngân hàng cũng có nhiều ràng buộc nhưng thực tế vẫn có nhiều ngân hàng bỏ tiền vào đầu tư bất động sản và sử dụng vốn ngân hàng cho vay các dự án bất động sản của mình. Mối quan hệ “gia đình” này làm cho việc cho vay vốn và đầu tư trong lĩnh vực bất động sản kém minh bạch, thiếu kiểm soát và rất rủi ro, đặc biệt khi thị trường suy thoái. Hệ lụy là “cặp song sinh này” có mối quan hệ rất chặt chẽ đồng thời cũng gây ra rủi ro không những đối với ngân hàng bị lôi cuốn vào mối quan hệ này mà đối với nền kinh tế và hệ thống tài chính có thể gây nên rủi ro hệ thống và khủng hoảng.

Nợ xấu trong vài năm tới liệu có xử lý được không và điều này ảnh hưởng thế nào đến triển vọng ngành ngân hàng và bất động sản trong tương lai?

Với tình hình hiện nay nếu Việt Nam không có những quy định pháp luật đồng bộ hơn, thông thoáng hơn và bảo vệ quyền lợi của người cho vay thì tình trạng nợ xấu sẽ khó giải quyết được trong vòng 5-10 năm tới. Dù cho phần lớn nợ xấu liên quan tới bất động sản và thị trường bất động sản phục hồi nhưng việc giảm nợ xấu vẫn không dễ dàng. Thành ra các quy định về pháp lý phải thay đổi.

Thứ hai nữa là VAMC cần thay đổi toàn bộ cấu trúc của mình. Hiện tại, VAMC không có nhiều quyền lực và chức năng của công ty này chưa đủ để có thể trở thành một công cụ xử lý nợ xấu hữu hiệu. Do đó, muốn xử lý nợ xấu thì những cơ chế quy định cho VAMC phải được thay đổi một cách triệt để. Chỉ có phương thức mua bán nợ xấu bằng cách “mua đứt bán đoạn” bằng “tiền tươi thóc thật” thì nợ xấu mới xử lý nhanh được. Còn với cơ chế mua bán nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt, với nguồn lực vốn và nhân sự như VAMC hiện nay thì không có hi vọng nhiều vào việc xử lý nợ xấu trong tương lai. Khi không xử lý được nợ xấu đồng nghĩa với các thế chấp bất động sản chưa được xử lý, giải tỏa và thị trường bất động sản vẫn còn lượng tồn kho rất lớn và khó có cơ hội phát triển thực sự.

Thị trường đang phục hồi và phát triển thời gian qua có bền vững hay sẽ có bong bóng tạm thời?

Hai năm trở lại đây, bất động sản phục hồi khá mạnh và nhiều khả năng nó sẽ tiếp tục tiến trình phục hồi đó trong thời gian tới. Tôi chưa nhìn thấy bong bóng xuất hiện, mặc dù giá nhà một vài phân khúc tăng khá mạnh. Tuy nhiên, nếu không cẩn thận, 2016 có thể xảy ra bong bóng.

Trong thời gian gần đây phân khúc bất động sản cao cấp phát triển khá nhanh và đang hút nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp. Đây là phân khúc khó bán nhất do giá trị cao không phù hợp với túi tiền của phần lớn người Việt Nam nhưng thời gian gần lại bỗng nhiên nở rộ. Đây là một điều đáng quan tâm vì hơn 90 triệu người Việt Nam bình quân thu nhập chỉ hơn 2.000 USD/năm, lấy đâu tiền để mua những căn hộ 300-500 nghìn USD. Một số những căn hộ cao cấp đang được giới đầu cơ mua đi bán lại và đẩy giá lên. Các nhà đầu tư bất động sản nên cẩn thận để khỏi rơi vào bẫy làm giá của giới đầu cơ.

Tôi cho rằng, đang có hiện tượng “ảo” trong nhu cầu về bất động sản cao cấp và nghỉ dưỡng do đó có thể sắp tới nguồn cung vượt cầu. Để phòng tránh tình trạng này thì cần có sự vào cuộc của nhiều cơ quan và các ngân hàng. Thị trường cần minh bạch và cung cấp những thông tin chính xác nhất cho khách hàng, nhà đầu tư. Tránh hiện tượng cơn nóng sốt này kéo theo hiện tượng không ít doanh nghiệp bất động sản không đủ năng lực nhưng vẫn cố vay tiền làm dự án nghìn tỷ, chiếm giữ các vị trí đất vàng nhưng lại nằm đắp chiếu nhiều năm trời gây lãng phí cho xã hội.

Triển vọng của hệ thống ngân hàng sẽ ra sao trong thời gian tới, thưa ông?

Việc thực hiện tái cấu trúc ngân hàng như trong thời gian qua là chưa đủ mà còn cần sự cải tổ toàn diện. Hiện cách quản trị, minh bạch hóa thông tin của các ngân hàng Việt Nam rất kém. Hầu hết ngân hàng đều không phân định chức năng quản trị của hội đồng quản trị và chức năng quản lý của ban điều hành. Hiện tượng chồng chéo giữa hai chức năng này dẫn đến việc ông chủ ngân hàng, các cổ đông lớn can thiệp trực tiếp vào việc điều hành của ngân hàng gây rủi ro lớn trong hoạt động. Về nguyên tắc hội đồng quản trị chỉ đưa ra các định hướng phát triển chứ không được tham gia trực tiếp vào công việc của ban điều hành. Tuy nhiên, thực tế hiện nay tình trạng phổ biến của hầu hết ngân hàng là ban quản trị vừa định hướng, vừa thực hiện, vừa giám sát nên xảy ra việc lạm quyền, độc đoán và thiếu minh bạch.

Với những vấn đề tồn tại có tính chất căn bản đó, không có nhiều hi vọng để hệ thống ngân hàng Việt Nam sớm phát triển lành mạnh. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tương lai hệ thống tài chính vẫn chưa sáng sủa và do đó bất động sản vẫn còn bấp bênh.

Xem >> Việc làm ngành bất động sản / Real estate jobs

OPEC: Giá dầu thấp gây tổn thương kinh tế toàn cầu

Trong báo cáo hàng tháng công bố ngày hôm qua 10-2, Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) cho rằng giá dầu thấp bắt đầu gây tổn thương nền kinh tế toàn cầu đồng thời không làm tăng nhu cầu xăng và các sản phẩm khác từ dầu mỏ như kỳ vọng.

Giá dầu thấp được xem là có lợi cho những nước tiêu thụ dầu và rộng hơn nữa là cho cả nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên lần này, OPEC nhận định “hiệu ứng tiêu cực tổng thể do giá dầu giảm mạnh kể từ giữa năm 2014 đã vượt trội các lợi ích trong ngắn hạn”.

Báo cáo của OPEC hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2016 xuống còn 3,2% so với mức 3,4% trong lần dự báo trước. OPEC nhận định trong năm nay, nhu cầu dầu của toàn cầu được dự báo tăng thêm 1,25 triệu thùng/ngày, lên mức 94,21 triệu thùng/ngày. Mặc dù vậy, OPEC dự báo trong quý 1-2016, dư thừa dầu trên toàn cầu sẽ ở mức 1,84 triệu thùng/ngày.

OPEC cho biết sản lượng khai thác của tổ chức này cũng tăng 131.000 thùng/ngày lên mức 32,33 triệu thùng /ngày trong tháng 1-2016.

Sản lượng dầu của OPEC tăng chủ yếu là vì Nigeria, Iraq, Iran và Ả rập Saudi đẩy mạnh khai thác.

Cùng ngày, ông Igor Sechin, Giám đốc điều hành của tập đoàn dầu khí lớn nhất Nga Rosneft bác bỏ khả năng Nga cùng các nước OPEC thảo luận về khả năng cắt giảm sản lượng. Ông nói Nga là một trong số nước sản xuất dầu với chi phí thấp nhất thế giới và sẵn sàng tiếp tục khai thác với sản lượng kỷ lục.

Hôm 9-2, Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) có trụ sở ở Paris, dự báo dầu tiếp tục dư thừa trong năm 2016 và có rất ít khả năng OPEC sẽ thỏa thuận với các nước sản xuất dầu mỏ khác để cắt giảm sản lượng.

IEA cho biết giá dầu sẽ không giảm xuống mức 10 đô la Mỹ/thùng như một số dự báo bi quan nhưng sẽ khó tăng nhiều từ mức giá hiện tại. IEA cho rằng sản lượng dầu đá phiến của Mỹ đã bắt đầu giảm vì giá dầu xuống thấp nhưng cơ quan này dự báo sản lượng dầu ngoài OPEC chỉ giảm khoảng 0,6 triệu thùng/ngày trong năm 2016.

*** Việc làm dầu khí / Oil & Gas Jobs

BP bị chỉ trích vì dự đoán giá dầu trở lại 100 đô la Mỹ/thùng

Ngày hôm qua 10-2, trong báo cáo triển vọng năng lượng hàng năm, tập đoàn dầu khí BP của Anh dự báo một tương lai tươi sáng cho ngành công nghiệp dầu khí. BP tin rằng nhiên liệu hóa thạch sẽ tiếp tục chiếm 80% nguồn cung năng lượng toàn cầu vào năm 2035 và giá dầu sẽ có cơ hội trở lại mức 100 đô la Mỹ/thùng. Báo cáo cho rằng về dài hạn, sản lượng dầu đá phiến của Mỹ sẽ tăng từ mức 4 triệu thùng/ngày hiện nay lên mức 8 triệu thùng/ngày vào thập niên 2030 và sẽ chiếm 40% sản lượng dầu của Mỹ.

Giám đốc điều hành BP Bob Dudley nói: “Giữa lúc giá dầu khí đang suy giảm, điều quan trọng không chỉ là điều chỉnh để thích nghi với các điều kiện khó khăn hiện tại mà còn phải chuẩn bị cho các thách thức tiếp theo”.

Thông điệp chính của ông Bob Dudley là ngành dầu khí phải tiếp tục khai thác các trữ lượng mới để đáp ứng nhu cầu năng lượng mạnh mẽ từ các nước đang phát triển cũng như vì dân số toàn cầu tăng.

Nhà kinh tế trưởng của BP Spencer Dale cho rằng trong 20 năm tới, giá dầu nằm trong khoảng 30 đến 100 đô la Mỹ/thùng và sẽ có những lúc vượt 100 đô la Mỹ/thùng.

Các dự báo trên của BP lập tức bị nhiều người chỉ trích. Họ cáo buộc BP cố tình thổi phồng triển vọng ngành nghề kinh doanh của tập đoàn này để mưu lợi riêng trong khi đánh giá thấp nhu cầu năng lượng gió và mặt trời trong tương lai.

Chuyên gia Greg Muttitt ở tổ chức vận động sử dụng năng lượng sạch Oil Change International (Mỹ) nói: “BP muốn chúng ta tin rằng các biện pháp hành động của các chính phủ đối với biến đổi khí hậu sẽ thất bại, các công nghệ sạch sẽ chìm lắng và tương lai của ngành năng lượng sẽ vẫn dựa vào nhiên liệu carbon… Đây không phải là quan điểm đáng tin cậy về tương lai của ngành năng lượng.

 

Các dự án lọc dầu đình trệ theo giá dầu

Giá dầu giảm sâu là nguyên nhân chính khiến các nhà đầu tư các dự án lọc hóa dầu trong nước lưỡng lự trong việc triển khai thực hiện và thậm chí có thể rút khỏi các dự án đầu tư có vốn hàng tỉ đô la Mỹ.

Nhiều dự án bị ảnh hưởng

Dự án lọc hóa dầu Victory ở Khu kinh tế Nhơn Hội, tỉnh Bình Định, vốn đầu tư dự kiến 22 tỉ đô la Mỹ, được chính quyền địa phương nơi đây kỳ vọng sẽ góp phần đáng kể thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương khi được triển khai thực hiện. Tuy nhiên, đến nay hồ sơ của dự án vẫn chưa đến tay nhà quản lý dù trước đó chính quyền địa phương dự báo dự án này sẽ được cấp phép vào nửa đầu năm 2015.

Theo nguồn tin có thẩm quyền từ Ban quản lý Khu kinh tế Nhơn Hội, chủ đầu tư là Tập đoàn Dầu khí Thái Lan (PTT) sẽ phải đánh giá lại hiệu quả đầu tư của dự án trong tình hình giá dầu thế giới liên tục lao dốc thời gian qua. Thậm chí, việc dự án này sẽ được triển khai thế nào, quy mô ra sao cho đến thời điểm này vẫn là một dấu hỏi lớn.

Lý do được nhà đầu tư đưa ra là vì giá dầu thô trên thế giới đã giảm quá sâu trong nửa cuối năm 2014 và cả năm 2015. Cuối tháng 12 vừa qua, giá dầu thậm chí đã xuống mức thấp nhất trong vòng 11 năm qua. Nhiều chuyên gia trên thế giới dự báo giá dầu sẽ khó phục hồi lại mức cao như cách đây hai năm trong thời gian dài phía trước.

Như vậy, sau bao nhiêu nỗ lực của PTT nhằm thúc đẩy tiến độ hoàn thành báo cáo nghiên cứu tiền khả thi của dự án, thuyết phục các cơ quan quản lý địa phương và trung ương để dự án được bổ sung vào quy hoạch công nghiệp dầu khí quốc gia cho đến khi dự án đã được thông qua, thì nhà đầu tư PTT và đối tác Saudi Aramco (Ảrập) vẫn chưa cho biết dự án ở quy mô thế nào và tiến độ ra sao.

Saudi Aramco là đơn vị dự kiến sẽ cung cấp dầu thô cho dự án. Theo Ban quản lý Khu kinh tế Nhơn Hội, giá dầu giảm mạnh chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư Saudi Aramco.

Trong khi đó, ở dự án Lọc hoá dầu Long Sơn ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Tập đoàn dầu khí quốc gia Qatar – một trong bốn nhà đầu tư của dự án có tổng mức đầu tư 4,5 tỉ đô la này – cũng đã chính thức xin rút khỏi dự án do tái cơ cấu và thay đổi chiến lược phát triển của mình. Như vậy sau hơn 8 năm cấp phép và đình trệ, dự án đầu tư này sẽ tiếp tục gặp khó vì phải tìm nhà đầu tư khác thay thế Qatar – đơn vị chịu trách nhiệm cung cấp nguyên liệu cho dự án – hoặc phải tìm nhà cung cấp nguyên liệu khác nếu Qatar không duy trì việc cung cấp nguyên liệu cho dự án.

Còn đối với dự án lọc dầu Dung Quất ở Quảng Ngãi, sau hơn hai năm ký thỏa thuận khung và đàm phán, cuối cùng cuộc “hôn nhân” được kỳ vọng giữa Công ty TNHH một thành viên lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) và Tập đoàn Gazprom Neft (Nga) đã không đi đến cái kết tốt đẹp. Phía Nga đã gửi văn bản đề nghị dừng đàm phán việc mua lại 49% cổ phần tại BSR.

Đề nghị này xuất phát từ việc đầu tháng 12-2015, PVN không thể đợi lâu hơn nên đã gửi văn bản cho đối tác thông báo Thỏa thuân khung đã ký giữa hai bên về thời hạn hợp tác chuyển nhượng 49% phần vốn góp tại BSR cũng đã kết thúc. Vì thế, Gazprom Neft cũng chính thức từ chối PVN.

Thực ra, đây là kết quả không mấy bất ngờ đối với những người trong cuộc vì trong suốt quá trình đàm phán kéo dài, hai bên luôn không tìm được điểm chung. Lý do được phía đối tác Nga và PVN đưa ra là nội dung đàm phán vướng mắc phần liên quan đến xác định giá trị doanh nghiệp và thời gian thanh toán tiền nhận chuyển nhượng vốn góp.

Song thực tế, nguồn tin của TBKTSG Online cho biết, các khoản nợ của BSR cũng là một yếu tố quan trọng khiến đối tác ngần ngừ, nhất là trong thời điểm hiện nay khi việc đầu tư vào các dự án lọc hóa dầu rất khó khăn, kém hiệu quả do giá dầu xuống thấp, càng khai thác càng thua lỗ và khó cạnh tranh với các nhà khai thác dầu khí đá phiến tại Mỹ.

Đoạn kết này sẽ khiến BSR rẽ sang một hướng khác. BSR sẽ đi đến quyết định cổ phần hóa nhà máy và bắt tay vào tìm kiếm các cổ đông chiến lược, thế chỗ cho Gazprom Neft.

BSR đã có phương án mở rộng, nâng công suất nhà máy lọc dầu Dung Quất lên 10 triệu tấn mỗi năm, với vốn đầu tư bổ sung từ 1,5 tỉ đến 3 tỉ đô la Mỹ. Tuy nhiên, việc mở rộng nhà máy mà phía Gazprom dự định góp vốn trước đây có phương án tài chính được lập dựa trên các đề xuất về cơ chế ưu đãi, nhất là ưu đãi về thuế nhập khẩu. Hiện nay, BSR đang được hưởng lợi so với giá dầu nhập khẩu nhờ giá bán ra được tính như giá có thuế nhập về. Tuy nhiên, các ưu đãi này sẽ chấm dứt sau năm 2018.

Như vậy, số phận của các dự án lọc hóa dầu này vẫn còn khá bấp bênh, cho dù đây là một thực tế đã được dự báo khi giá dầu trên thị trường thế giới giảm sâu. Tình hình khác hẳn với sự hứng khởi và đầy kỳ vọng của hơn 2 năm trước.

Sẽ ảnh hưởng gì?

Đến nay, cả nước đã có 8 dự án lọc, hóa dầu trải dài từ Thanh Hóa đến Cần Thơ dù theo chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam tới năm 2020 (ban đầu) chỉ có ba nhà máy lọc, hóa dầu tại Quảng Ngãi, Thanh Hóa và Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngoài Nhà máy Dung Quất và một nhà máy có quy mô nhỏ có tên Cát Lái ở TPHCM đang hoạt động thì còn có thêm sáu dự án khác.

Cụ thể, đó là dự án lọc dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa) với vốn đầu tư 9 tỉ đô la Mỹ, công suất 10 triệu tấn dầu thô/năm; dự án tại Vũng Rô (Phú Yên) vốn đầu tư 3,2 tỉ đô la Mỹ, công suất 8 triệu tấn dầu thô/năm; dự án Nam Vân Phong (Khánh Hòa) vốn đầu tư 8 tỉ đô la Mỹ, công suất 10 triệu tấn dầu thô/năm; dự án đơn vị chịu trách nhiệm cung cấp nguyên liệu cho dự án Victory (Nhơn Hội, Bình Định) vốn đầu tư 22 tỉ đô la Mỹ, công suất 20 triệu tấn dầu thô/năm; dự án Long Sơn (Bà Rịa – Vũng Tàu) vốn đầu tư 4,5 tỉ đô la Mỹ, công suất 2,7 triệu tấn dầu thô/năm; dự án tại Cần Thơ có vốn đầu tư 538 triệu đô la Mỹ, công suất 2 triệu tấn dầu thô/năm.

Thực tế tiến độ triển khai các dự án lọc dầu này được đánh giá rất ì ạch. Ngoài ra, ngoại trừ Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, các dự án lọc dầu còn lại đều phải trông chờ vào nguồn nguyên liệu là dầu thô nhập khẩu từ Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latin để vận hành. Đây là bất lợi lớn vì giá các sản phẩm lọc hóa dầu tại Việt Nam phải gánh thêm chi phí vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu.

Theo Giáo sư Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổng công suất thiết kế của các dự án lọc, hóa dầu lên tới gần 65 triệu tấn/năm, vượt xa nguồn cung dầu thô khai thác trong nước.

Lượng khai thác dầu thô trong nước tối đa chỉ đạt khoảng 15 triệu tấn/năm. Như vậy để vận hành, Việt Nam phải nhập tới 45-50 triệu tấn dầu để sản xuất ra thành phẩm.

Vấn đề khác nữa là đầu tư các dự án này hiện lại nhận được ưu đãi khá cao của Chính phủ và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương. Ngoài ưu đãi trực tiếp, một số địa phương có dự án lọc hóa dầu còn kiến nghị ngân sách trung ương hỗ trợ vốn giải phóng mặt bằng với số tiền lên đến hàng trăm hoặc hàng ngàn tỉ đồng/dự án.

Trong báo cáo đánh giá tác động của Tổ hợp Lọc hóa dầu Nhơn Hội, Bộ Công Thương đã thẳng thắn cho rằng với hai dự án lọc hóa dầu Dung Quất và Nghi Sơn, Việt Nam đã cơ bản chủ động được nguồn cung xăng dầu, đáp ứng 60-70% nhu cầu trong nước, vì vậy không bắt buộc phải xây thêm các nhà máy lọc dầu mới.

Nếu các dự án nhà máy lọc dầu trong nước đang vận hành mở rộng trong giai đoạn 2020-2030, lượng xăng dầu dư thừa sẽ tăng lên và xuất hiện sự cạnh tranh gay gắt giữa các dự án lọc hóa dầu trong nước.

Theo Giáo sư Mại, các nước đi trước đã phải chịu rất nhiều hậu quả do phát triển công nghiệp hóa dầu: ô nhiễm môi trường, khí thải nhà kính và quan trọng là sử dụng nhiều tài nguyên đất đai… Do đó, việc phát triển công nghiệp khai khoáng, lọc hóa dầu cần ở mức độ vừa phải.

Do đó giới phân tích cho rằng việc tạm ngưng hoặc dừng một số dự án đầu tư trên sẽ không ảnh hưởng nhiều đến việc cung cấp xăng dầu trong nước.

>> Việc làm dầu khíOil & Gas Jobs

 

3 cách gia tăng sự gắn kết nhân tài

Trong những năm gần đây, thuật ngữ “nhân viên gắn kết” bắt đầu được nhắc đến nhiều khi doanh nghiệp nhận ra có được đội ngũ nhân viên gắn kết quan trọng hơn nhiều so với những nhân viên hài lòng (vì trong nhiều trường hợp, nhân viên có thể hài lòng nhưng chưa chắc đã có sự gắn kết). 

Theo định nghĩa của Anphabe, một nhân viên gắn kết sẽ có nhiều biểu hiện tiêu biểu như: Suy nghĩ tích cực về những gì họ có được khi làm việc tại công ty, cảm nhận tích cực về định hướng và môi trường tại đây và chủ động hành động tích cực vì lợi ích chung.

Tư vấn cho nhiều doanh nghiệp lớn về việc xây dựng đội ngũ nhân viên gắn kết, chúng tôi nhận ra, có ba xu hướng mà nhiều công ty đã áp dụng hiệu quả:

1. Gia tăng chất lượng công việc, cuộc sống của nhân viên

Kết quả khảo sát Nơi làm việc tốt nhất Việt Nam 2013 và 2014 của Anphabe cho thấy, xu hướng gia tăng rõ nét về kỳ vọng của người đi làm về chất lượng công việc và cuộc sống.

Các yếu tố cơ bản như lương, thưởng chỉ đóng vai trò nhất định, nhiều công ty đang tập trung vào các chương trình đa dạng để hỗ trợ sức khỏe và tinh thần cho nhân viên.

“Quan tâm tới nhân viên là một chuyện, quan trọng hơn là công ty phải quan tâm cả những vấn đề nhân viên quan tâm, đó mới gọi là chăm sóc toàn diện”, bà Nguyễn Tâm Trang – Phó tổng giám đốc nhân sự Công ty Unilever – đơn vị 2 năm liền dẫn đầu danh sách Nơi làm việc tốt nhất Việt Nam cho biết.

Vậy nhân viên quan tâm những gì và công ty có thể làm những gì? Sức khỏe, gia đình và tương lai là mối bận tâm hàng đầu của nhân viên, bà Trang khẳng định.

Theo bà Trang, tùy điều kiện cũng như tính chất của doanh nghiệp, có thể đưa ra nhiều cách thức chăm sóc nhân viên. Chẳng hạn như chính sách bảo hiểm dành cho gia đình, hỗ trợ chi phí học tập cho con cái, bảo hiểm hưu trí bổ sung… Tại Unilever, Công ty còn phân nhóm nhân viên cụ thể để đưa ra nhiều chương trình riêng, ví dụ nhóm nhân viên mới sinh con, hay nhóm nhân viên trẻ chưa lập gia đình…

Đầu tư vào văn phòng cũng là cách được nhiều công ty chú trọng để chăm sóc nhân viên. Các hình thức như căn-tin chất lượng cao, phòng tập và lớp thể dục trong văn phòng, khu nghỉ ngơi… đang ngày càng phổ biến. Nếu bước vào văn phòng của Intel vào tầm ăn trưa, bạn sẽ ngạc nhiên khi có cảm giác như đang ở khu ăn uống của một trung tâm thương mại đông vui với rất nhiều lựa chọn thực đơn phong phú. Ở đây thậm chí còn có một quán cà phê Highlands dành riêng cho nhân viên.

Đặc biệt hơn, khi áp lực công việc trong thời đại công nghiệp ngày càng cao, không chỉ hỗ trợ về sức khỏe thể chất, Unilever đang dành rất nhiều tâm huyết cho các chương trình về sức khỏe tinh thần.

Trong một dịp hiếm hoi GS-TS. Hà Vĩnh Thọ – Giám đốc Trung tâm Chỉ số hạnh phúc quốc gia Bhutan – về Việt Nam theo lời mời của Công ty, tôi đã có dịp nghe chia sẻ về rất nhiều bí quyết mà Trung tâm đang hướng nhân viên tới như “cách tập trung hơn, cách suy nghĩ tích cực, cách quản trị cảm xúc và theo đuổi những mục tiêu có ý nghĩa”.

2. Phát triển, phát triển và phát triển

Nếu không còn cơ hội phát triển, chắc chắn nhân tài sẽ ra đi. Điều quan trọng ở đây là “thế nào là phát triển” và làm sao để hỗ trợ tốt nhất nhu cầu phát triển của nhân viên.

Với những công ty có tính chuyên môn cao như Prudential thì đó là lộ trình thăng tiến rõ ràng đi kèm chương trình đào tạo quy củ. “Văn hóa cởi mở và công bằng cũng là yếu tố quan trọng để công ty và nhân viên có thể thường xuyên trao đổi thẳng thắn về định hướng tương lai cũng như những gì nhân viên cần cố gắng thêm”, bà Bùi Thanh Thúy – Giám đốc Nhân sự Prudential từng chia sẻ.

Còn tại Unilever, đó là phương châm “Phát triển tối đa” được áp dụng cho từng nhân viên, và phát triển không chỉ là thăng chức. Bà Tâm Trang khẳng định: “Công ty có được đội ngũ gắn kết nhiều nhất khi cho họ quyền được tự do trải nghiệm, đối mặt với nhiều thách thức và học hỏi không giới hạn qua nhiều vị trí, để cuối cùng mỗi người trở thành một “phiên bản tốt nhất có thể”.

Nhiều nhân sự cấp trung cho rằng, phát triển được hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào “xúc tác để phát triển”, như các nhãn hàng mà họ được phụ trách, những nhân tài mà họ được học hỏi, làm việc cùng và những dự án quy mô mà họ được thực hiện.

3. Đẩy mạnh niềm tự hào

Xu hướng thứ ba là các công ty xây dựng sự gắn kết thông qua các hoạt động đánh vào lòng tự hào. Trong các thước đo về độ gắn kết của Anphabe, tự hào là thước đo quan trọng.

Nếu hỏi bất kỳ nhân viên nào tại Unilever, họ không chỉ hào hứng chia sẻ về các sản phẩm “gia tăng sức sống cho cuộc sống” phục vụ hàng triệu người tiêu dùng Việt Nam, mà sẽ nói rất nhiều về các hoạt động hỗ trợ cộng đồng mà họ thường xuyên tham gia. Hay như Sanofi Việt Nam, sức gắn kết của Công ty luôn gắn liền với các giá trị sức khỏe mà Công ty tập trung phục vụ.

Điều đáng nói, niềm tự hào về công việc mình làm hay danh tiếng công ty có thể không phải là yếu tố quan trọng nhất khi người đi làm chọn việc, nhưng nó đang trở thành một trong những xu hướng quan trọng để giữ chân nhân viên. Khi đó họ cảm thấy hạnh phúc, tự hào về công việc, nơi làm việc, và sẵn sàng giới thiệu với bạn bè, người thân về điều đó.

Tóm lại, niềm tự hào của nhân viên chính là “thông điệp thương hiệu nhà tuyển dụng” hiệu quả nhất mà công ty nào cũng mong có được. Như lời của bà Tâm Trang: “Chỉ cần có ba “kim chỉ nam”: chăm sóc toàn diện, phát triển tối đa, sống và làm việc có ý nghĩa thì công ty nào cũng chắc chắn trở thành “thỏi nam châm” để thu hút và giữ chân nhân tài”.