‘Vận đen’ của Parkson ở thị trường Việt Nam

Khó khăn chưa dứt với Parkson khi tập đoàn này tiếp tục báo lỗ cùng hiệu suất hoạt động suy giảm ở Việt Nam.

Sau 8 năm hoạt động, Parkson Flemington (TP HCM) tuyên bố đóng cửa, đánh dấu trung tâm thương mại thứ 4 của tập đoàn rút khỏi Việt Nam. Dù vậy, quyết định này cũng không quá bất ngờ khi hoạt động của Parkson tiếp tục rơi vào khó khăn.

Năm 2017, dù doanh thu của Parkson Holding Berhad đạt gần 4 tỷ Ringgit Malaysia (RM), tương đương hơn 23.000 tỷ đồng, khoản lỗ hoạt động tăng gần 40% so với năm trước, đạt 142 triệu RM. Trong đó, Việt Nam tiếp tục là một trong những thị trường có tỷ lệ tăng trưởng âm cao nhất.

Tỷ lệ tăng trưởng đối với các trung tâm thương mại đã mở trên một năm (same-store sales growth – SSSG) của Parkson tại Việt Nam tiếp tục ghi nhận con số âm trong năm tài chính 2017 (kết thúc ngày 30/6/2017). Tỷ lệ này là âm 13,6%, mức độ giảm chỉ dưới Myanmar, nhưng đứng trên tất cả các thị trường còn lại của Parkson.

Về kết quả kinh doanh cụ thể, tổng doanh thu của thị trường Việt Nam và Myanmar trong năm tài chính 2017 chỉ đạt 101 triệu RM (gần 600 tỷ đồng), giảm hơn 9% so với năm trước. Bộ phận kinh doanh này báo lỗ 5 triệu RM, tương đương hơn 29 tỷ đồng.

Trung tâm thương mại cuối cùng của Parkson tại Hà Nội đã đóng cửa vào cuối năm 2016.

“Thị trường bán lẻ tại Việt Nam vẫn trong thời kỳ bão hòa và tình hình hoạt động đã chứng minh những khó khăn của hiện tại”, ông Tan Sri William H.J. Cheng – Chủ tịch của Parkson Holdings cho biết trong thư thường niên gửi các cổ đông năm 2017.

Là đơn vị trực thuộc Parkson Holdings Berhad (PHB) – công ty thành viên của Tập đoàn Lion (Malaysia), Parkson nhảy vào thị trường Việt Nam từ năm 2005 và trở thành một trong những nhà phát triển mặt bằng bán lẻ hàng hiệu đầu tiên tại đây.

Tuy nhiên, kể từ năm 2014 làn sóng đầu tư của Parkson đã dừng hẳn. Đây là năm duy nhất trong suốt thời gian gia nhập thị trường Việt Nam, họ không mở rộng thêm trung tâm thương mại. Rồi các năm sau đó, đơn vị này đã lần lượt phải đóng cửa các trung tâm thương mại tại thành phố lớn khi triển vọng kinh doanh sụt giảm mạnh.

Cuối năm 2016, tập đoàn này đã quyết định đóng cửa trung tâm thương mại Parkson Viet Tower tại Thái Hà, Hà Nội, đánh dấu sự rút lui hoàn toàn tại thủ đô. “Môi trường kinh doanh tại thị trường miền Bắc, đặc biệt là các trung tâm thương mại tại Hà Nội đang suy yếu khi ngày càng nhiều mặt bằng bán lẻ bị bỏ trống. Trong khi các trung tâm thương mại tại miền Nam, TP HCM vẫn tiếp tục duy trì kết quả kinh doanh khả quan, nâng hiệu suất kinh doanh tổng thể của thị trường Việt Nam”, ông Tan Sri Cheng Heng Jem – Chủ tịch Parkson Retail Asia cho biết trong thông điệp gửi các cổ đông.

Tuy nhiên, “vận hạn” của Parkson vẫn chưa dứt khi thị trường TP HCM, vốn được đánh giá khả quan hơn, đã bắt đầu theo chân miền Bắc.

Parkson Flemington (TP HCM) thông báo đóng cửa cuối tháng 1/2018.

Khi rút khỏi Hà Nội (thị trường được đánh giá là kém hiệu quả), Parkson nói đây là bước đi trong nỗ lực tối ưu hóa hiệu suất hoạt động trở lại tại thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả thu được vẫn chưa cho thấy dấu hiệu phục hồi.

Những khó khăn của Parkson tại thị trường Việt Nam, vốn không phải điều mới. Là một nhà bán lẻ hàng đầu, Parkson mang vào Việt Nam mô hình kinh doanh theo hướng siêu thị hàng hiệu cao cấp chia theo từng nhãn hàng và hầu hết chỉ cung cấp duy nhất dòng sản phẩm này trong trung tâm thương mại của Parkson.

Tuy nhiên, với cơ cấu dân số trẻ tại các thành phố lớn chủ yếu là giới văn phòng và sinh viên, mức thu nhập không quá cao, nhu cầu các sản phẩm hàng hiệu trở thành một điều xa xỉ.

Trong khi hàng loạt mô hình trung tâm thương mại “one-stop mall” hay “one-stop shopping” (cung cấp tất cả các dịch vụ tại một điểm) quy mô lớn được xây dựng trở thành đối trọng quá lớn với mô hình kinh doanh của Parkson. Không ngẫu nhiên khi sự rút lui của Parkson thường đi cùng với sự xuất hiện của những trung tâm thương mại mới gần đó.

Ikea thay đổi cách mua hàng như thế nào?

Hãng khổng lồ về đồ nội thất được đóng gói phẳng này đã có những phương pháp tinh vi, nhưng mạnh mẽ, để ảnh hưởng đến hành vi người mua hàng.

Khi người mua tự lắp ráp

Có hai khía cạnh của cuộc sống hiện đại mà chúng ta phải cám ơn Ikea: đồ nội thất được đóng gói phẳng và cách bố trí cửa hàng đã làm bạn mua nhiều sản phẩm hơn là dự kiến ban đầu. Cả hai vấn đề trên là những nguyên tắc mà một số công ty khác đã sử dụng tốt.

Ikea lần đầu tiên đưa ra phong cách nội thất được đóng gói phẳng (người tiêu dùng sẽ tự lắp ráp tại nhà) trong những năm 1950. Cho dù bạn yêu hay ghét khái niệm này, đó là việc làm thiên tài và là một cách hiệu quả để quần chúng đánh giá cao thương hiệu này. Hiệu quả chi phí và sự tiện lợi của việc vận chuyển hàng là rõ ràng. Nhưng đồ nội thất được đóng gói phẳng cũng có một ảnh hưởng tiềm ẩn quan trọng đối với người tiêu dùng.

Khi mà Ikea rời bỏ việc bán đồ nội thất đã được lắp ráp sẵn, thì họ hầu như không biết là nó sẽ ảnh hưởng thế nào đến người tiêu dùng. Tuy nhiên, các nhà khoa học từ khi đó đã xác định được vì sao người tiêu dùng không bao giờ chán việc tự làm lấy đồ nội thất của mình.

Hành động đơn giản là có sự đụng tay vào sản phẩm (và còn cách nào tốt hơn để đảm bảo tương tác đụng tay hơn là thông qua việc lắp ráp một đồ nội thất) có thể làm tăng giá trị cảm nhận tổng thể của sản phẩm. Điều đó cộng với thực tế là người tiêu dùng càng góp nhiều công sức làm ra một vật thể nào đó thì họ càng yêu quý nó, đây là một công thức thành công chắc chắn.

Những thử nghiệm đã chỉ ra rằng hành động thực tế của việc lắp ráp một cái gì đó (mặc dù có thể kéo theo mồ hôi, việc văng tục và nước mắt) để nó trở thành một vật thể hoàn chỉnh sẽ tạo ra một nhận thức thích thú về vật thể đó hơn là nó được mua ở dạng đã hoàn chỉnh. Hiện tượng này được gọi là hiệu ứng Ikea.

Hiệu ứng này được tăng cường hơn nữa bởi thực tế là bản thân việc đụng tay vào lại đi kèm với cảm xúc. Điều này có nghĩa là khi ta đụng tay vào cái gì đó, phần cảm xúc của não ta sẽ được kích hoạt để ta cảm thấy sự kết nối khăng khít với sản phẩm đó. Sự đụng tay sẽ tạo cảm giác sở hữu và làm tăng giá trị cảm nhận của chúng ta đối với vật thể. Vì vậy, người lắp ráp hài lòng của kiện hàng đóng gói phẳng sẽ, một khi lắp ráp xong, cảm thấy tự hào về thành tích của mình và có cảm giác liên quan chặt chẽ với sản phẩm này.

Đường một chiều và thiết kế vòng tròn

Cách bố trí mặt bằng các cửa hàng Ikea cũng tạo ra cách sáng tạo hơn để suy nghĩ về cách dẫn dắt người mua hàng. Nếu bạn đã từng ghé thăm một trong những gian hàng lớn của hãng, bạn có thể đã nghĩ rằng bạn sẽ chỉ mua một vài mặt hàng, để rồi thấy mình khi ra khỏi gian hàng với một xe đẩy chở đầy hàng. Đó là vì thiết kế vòng tròn và hệ thống đi một chiều của cửa hàng.

Thiết kế này làm bạn thường không thể nhìn thấy những gì sẽ đến tiếp theo và bạn sẽ sợ bỏ lỡ một cái gì đó mà mình cần nếu không tiếp tục đi theo hết con đường. Có nhiều điểm có thể thoát ra trong toàn bộ cửa hàng, nhưng như vậy có nghĩa là bạn sẽ bỏ lỡ nhiều khoang hàng và hiếm khi người tiêu dùng sẵn sàng cho rủi ro này.

Vì bạn biết có thể sẽ có khó khăn để sau này xem lại một mặt hàng đặc biệt nào đó nên bạn có xu hướng lượm nó khi thấy nó và đặt vào xe đẩy lớn của mình. Điều này đảm bảo rằng khách hàng chạm tay vào sản phẩm, và điều này lại tạo ra một cảm giác tâm lý về quyền được sở hữu nó và giảm khả năng nó bỏ lại trên con đường tới quầy trả tiền.

Sự thể là bạn không thể nhìn thấy sau góc ngoặt tới cũng tạo ra cảm giác tiềm thức về sự bí ẩn, mà nó lôi cuốn khách hàng tiến dần thêm vào gian hàng. Những môi trường được nhận thức là bí ẩn thường sinh ra ưa thích tổng thể mạnh hơn và vì vậy khuyến khích người mua tiếp tục đi qua hết gian hàng. Và bạn càng làm như vậy thì bạn càng dễ mua một cái gì đó, đặc biệt là các hàng nho nhỏ được trưng bày như đèn nến, khăn ăn và khung ảnh vì chúng có vẻ rẻ so với các mặt hàng lớn đắt tiền hơn.

Khả năng sáng tạo của hãng Ikea để tận dụng sự vô thức của khách hàng chắc chắn là một phần đáng kể của sự thành công của hãng, và cũng là lý do tại sao nó được sao chép bởi nhiều công ty khác. Mặc dù Ingvar Kamprad đã khuất, hãng Ikea đã thừa hưởng từ ông một điểm đặc biệt về tư duy ra ngoài khuôn khổ giao tiếp với người tiêu dùng. Sẽ là điều thú vị để xem những gì sẽ kế tiếp.

BBC Capital

Kỳ lạ công ty tuyển dụng kiểm tra mùi cơ thể ứng viên lái xe ôm

Công ty xe ôm mới nhất ở Indonesia đã nghĩ ra phương thức cạnh tranh độc đáo trên thị trường bằng việc kiểm tra mùi cơ thể các ứng viên, đặc biệt đối với những tài xế bị hôi nách

Theo Reuters, người sáng lập công ty dịch vụ xe ôm UberJek, Aris Wahyudi cho biết anh đã nghĩ ra cách thức độc nhất vô nhị để dành chiến thắng trên thương trường. Đó là cấm mọi xe ôm có mùi cơ thể nặng lái xe.

“Chúng tôi đã quyết định thực hiện một cuộc thử nghiệm về mùi cơ thể để đánh giá sự hài lòng của khách hàng”, Wahyudi chia sẻ.

Kỳ lạ công ty tuyển dụng kiểm tra mùi cơ thể ứng viên lái xe ôm - Ảnh 1

Các ứng viên xếp hàng chờ đến lượt kiểm tra mùi cơ thể. Ảnh: Reuters.

Công ty đã triển khai khoảng 3.000 tài xế trong khoảng thời gian 1-2 tháng ra mắt thị trường xe ôm. Hành khách sẽ sử dụng ứng dụng độc quyền để đánh giá tài xế dựa vào mùi cơ thể. Tài xế bị nhiều người nhận xét không tích cực sẽ nhận được cảnh báo và có thể bị nghỉ việc nếu không giữ thân thể sạch sẽ.

Hiện nay ở Indonesia có hơn 40 công ty cung cấp dịch vụ đậm chất châu Á này, bao gồm cả GrabBike của Malaysia và doanh nghiệp địa phương như Ojek Syari chỉ có nữ giới lái xe hay Limobike chuyên cung cấp xe ôm trên những chiếc Vespa đắt giá.

Tại một căn hầm chật chội, có nhiều ứng viên tài xế đang đứng xếp hàng để được kiểm tra “mùi hương” tỏa ra từ nách như một phần quá trình tuyển dụng.

Kỳ lạ công ty tuyển dụng kiểm tra mùi cơ thể ứng viên lái xe ôm - Ảnh 2

Endang Ahmad, 37 tuổi, coi công việc “ngửi nách” của mình là một nghề kiếm sống chân chính. “Tôi đã phát hiện ra nhiều loại mùi cơ thể khác nhau”. Anh chỉ tay về một tấm bảng dùng để chấm điểm các ứng viên tham gia bài kiểm tra. Yêu cầu đưa ra là họ phải đứng thẳng, tay duỗi hai bên trước một chiếc quạt gió để mô phỏng gió thổi khi ngồi sau xe ôm.

“Những người nào có mùi cơ thể và mùi hôi nách quá nặng sẽ không được chấp nhận”, Endang Ahmad nói.

Muhammad Ali, 44 tuổi muốn kiếm thêm thu thập ngoài vai trò chính là nhân viên ngân hàng, đã đồng ý trở thành tài xế lái xe ôm vào các buổi tối.

Anh chuẩn bị rất kỹ cho bài kiểm tra mùi cơ thể lần này. “Tôi đã mua một lọ bôi khử mùi vì vợ tôi nói người tôi không được thơm tho cho lắm. Nhưng tôi tin chắc mình sẽ vượt qua bài kiểm tra”.

Những nhà sáng lập Gcalls: Đồng hành từ một khát vọng chung

Cùng học Đại học Bách khoa, cùng đam mê công nghệ, hai chàng trai 9X Phạm Tấn Phúc và Nguyễn Xuân Bằng đã thành lập Gcalls sau nhiều lần thất bại. Năm 2016, ứng dụng công nghệ thông minh đã đưa hai bạn trẻ đến với Hội nghị Thượng đỉnh doanh nhân toàn cầu (GES2016) tại Mỹ. Và mới đây, cả hai lại “gây sốt” khi được nhà đầu tư của chương trình Thương vụ bạc tỷ – Shark Tank Việt Nam cam kết rót 1 triệu USD vốn đầu tư.

Những nhà sáng lập Gcalls: Đồng hành từ một khát vọng chung

Phạm Tấn Phúc và Nguyễn Xuân Bằng

Phúc đến với kinh doanh như một định mệnh, và định mệnh ấy bắt nguồn từ một nỗi ám ảnh trong một chuyến thực tập khi còn là sinh viên. “Trong mười nhà máy sản xuất giày mà tôi thực tập có đến 90% lao động là nữ, có những em còn rất nhỏ. Tôi đã bị ám ảnh bởi những em nhỏ đó. Mỗi ngày tỉnh dậy và nghĩ cảnh trẻ em Mỹ đang đi học, tung tăng nhảy nhót trên những đôi giày được tạo ra từ sức lao động của trẻ em Việt Nam mà thấy xót xa. Tôi muốn làm gì đó để thay đổi điều này, muốn tạo một doanh nghiệp có trách nhiệm hơn và người Việt của mình bảo vệ lẫn nhau được, đi ra toàn cầu được” – Phạm Tấn Phúc, đồng sáng lập Gcalls tâm sự.

Từ sự đồng điệu… 

Nỗi ám ảnh đó của Phúc được chia sẻ bởi một người bạn học là Nguyễn Xuân Bằng. Nhận thấy tiềm năng trong lĩnh vực thương mại điện tử cộng với dịch vụ chăm sóc khách hàng của các doanh nghiệp với hệ thống giao tiếp chuyên biệt còn hạn chế, năm 2015, cả hai đã nghiên cứu để cho ra đời ứng dụng Gcalls. Đây là sản phẩm công nghệ giúp tạo lập một tổng đài nghe gọi nhanh chóng và đơn giản chỉ với một đầu số hotline, giúp doanh nghiệp giảm thiểu chi phí kinh doanh.

Gcalls của Phạm Tấn Phúc và Nguyễn Xuân Bằng được xem là hiện tượng trong giới khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ của Việt Nam. Và cũng nhờ đó mà Phạm Tấn Phúc có mặt trong Hội nghị Thượng đỉnh doanh nhân toàn cầu (GES2016) do Tổng thống Obama tổ chức tại Thung lũng Silicon.

Và cũng với Gcalls, Nguyễn Xuân Bằng cùng 20 doanh nhân, nhà quản lý được chọn để tham gia chương trình Entrepreneurship & Innovation tại Israel. Không chỉ vậy, Gcalls đã đoạt giải thưởng Ý tưởng sáng tạo nhất tại Startup Wheel và giải nhất AngelHack tại Việt Nam, giành vé đi Thung lũng Silicon trình bày với các nhà đầu tư Mỹ.

Mới đây nhất, Gcalls của Phạm Tấn Phúc và Nguyễn Xuân Bằng đã nhận được cam kết đầu tư 1 triệu USD từ Quỹ Đầu tư Vinacapital thông qua đại diện Thái Vân Linh trong chương trình Shark Tank Việt Nam. Đây là khoản cam kết đầu tư lớn nhất từ trước tới nay của Shark Tank Việt Nam, đặc biệt dành cho một startup trong lĩnh vực công nghệ.

… đến “nghiệp khởi nghiệp”

Phạm Tấn Phúc cho rằng, khởi nghiệp như là cái nghiệp vậy. Trước khi thành công với Gcalls, Phúc và Bằng đã từng tạo lập Click Now (kết hợp game và quảng cáo online), HR Key (một ứng dụng cho lĩnh vực nhân sự). Và khi Bằng từ bỏ con đường khởi nghiệp sang Đức du học và làm việc cho hai tập đoàn của Đức và Hoa Kỳ thì Phúc tiếp tục với đề án “Bản đồ chống hàng giả”.

Đề án này đã được World Bank đầu tư 3.000USD nhưng phải dang dở sau 6 tháng triển khai vì kinh phí không đủ cho một ứng dụng tầm cỡ quốc gia. Thất bại, cạn vốn sau ba lần khởi nghiệp không làm chàng trai này nản chí. Phạm Tấn Phúc lại lập nhóm gia công phần mềm quản lý nội bộ doanh nghiệp và phần mềm cho các công ty thương mại điện tử Việt Nam ngay tại phòng trọ.

Gcalls là sản phẩm công nghệ giúp tạo lập một tổng đài nghe gọi nhanh chóng và đơn giản chỉ với một đầu số hotline. Với Gcalls, doanh nghiệp không cần đầu tư cơ sở hạ tầng, lắp đặt máy chủ hay các thiết bị  nội bộ khác nhưng có thể thiết lập ngay một tổng đài chuyên nghiệp với đầy đủ tính năng hỗ trợ việc chăm sóc khách hàng. Ứng dụng này giúp nhân viên doanh nghiệp tương tác với khách hàng tốt hơn, bất chấp sự khác biệt về múi giờ và không gian địa lý.
Hiện sản phẩm được phát triển với hai phiên bản là Gcalls softphone và Gcalls webphone, phù hợp với các doanh nghiệp cần phát triển dịch vụ chăm sóc khách hàng, cần nhu cầu nghe gọi và giải đáp thông tin nhanh, hiệu quả.

Không lùi bước trước khó khăn, năm 2014, Phạm Tấn Phúc tìm kiếm ý tưởng khác để tiếp tục giấc mơ “tạo ra hàng nghìn công ăn việc làm”. Và khi nhận được “tâm thư” của Phúc, Nguyễn Xuân Bằng trở về Việt Nam và quyết tâm khởi nghiệp một lần nữa. Từ đây, hành trình khởi nghiệp, tìm nhà đầu tư của hai chàng trai đam mê công nghệ lại một lần nữa bắt đầu.

“Thật không dễ để có sự chia sẻ từ những người không quen biết và vì không có sản phẩm cụ thể nên rất khó để thuyết phục được nhà đầu tư. Phải mất đến 6 tháng rao trên mạng, tụi tôi mới được Telstra chú ý và đồng ý rót 40.000 đô la Singapore thông qua Quỹ Muru-D. Cùng với việc rót vốn đầu tư, Telstra yêu cầu phải đưa công ty sang Singapore lập nghiệp với lý do nơi đây là khu vực tập trung các bằng sáng chế về công nghệ” – Bằng cho biết.

Nhưng để có được sự đầu tư của Telstra là cả một quá trình khó khăn mà chỉ những người đam mê mới kiên trì bám trụ đến cùng. Và trong khi chờ đợi đối tác rót vốn, Bằng phải đi làm tại các công ty đa quốc gia của Đức và Hoa Kỳ để có tiền cho nhóm và để Phúc toàn tâm vào việc điều hành. Thời gian này, Gcalls lại tiếp tục gặp vấn đề về tài chính và hơn một nửa nhân viên nghỉ việc.

Các thành viên còn lại chấp nhận giảm 50% lương trong 4 tháng. “Phúc có tầm nhìn, có khát khao và sự kiên định, thôi thúc biến ước mơ thành hiện thực. Phúc giúp tôi hiểu khởi nghiệp không chỉ 6 tháng hay một năm mà là một quá trình, một chặng đường dài chinh phục ước mơ” – Bằng chia sẻ lý do trở về cùng Phúc khởi nghiệp với Gcalls.

Khó khăn này qua, khó khăn khác lại đến nhưng “Tôi muốn tạo một thứ gì đó mới, giúp đỡ được người lao động và doanh nghiệp địa phương phát triển. Những thứ mà tôi thiết kế sẽ thuộc về lĩnh vực công nghệ thông tin. Nếu Gcalls thất bại thì tụi tôi lại khởi nghiệp với một sản phẩm khác cũng hướng về người lao động và doanh nghiệp địa phương” – Phạm Tấn Phúc chia sẻ về “nghiệp khởi nghiệp” của mình.

… Và tham vọng khai phá thị trường thế giới

Phúc và Bằng định danh công ty là một Telco (nhà cung cấp dịch vụ viễn thông) thế hệ mới với nhiều khác biệt so với các Telco truyền thống lẫn các dịch vụ tổng đài khác. Hai bạn trẻ không giấu tham vọng gầy dựng startup này thành một “đại gia” công nghệ tại Đông Nam Á và là doanh nghiệp công nghệ có nhiều bằng sáng chế trong khu vực. Và sự “giúp sức” của Telstra chính là giấy thông hành để Gcalls có những bước phát triển xa hơn. Sau đầu tư của Telstra, nhiều công ty khác đã tin tưởng rót vốn và Gcalls đã nhận được đánh giá cao từ các doanh nghiệp Úc, Mỹ.

Hai chàng trai trẻ đang có kế hoạch đưa công ty lên sàn chứng khoán trong 7 năm tới. Và hiện tại Công ty đang chuẩn bị để đưa Gcalls sang Philippines, Malaysia, Indonesia. Bởi theo Phạm Tấn Phúc, thị trường Philippines có rất nhiều công ty kinh doanh dịch vụ tổng đài chăm sóc khách hàng toàn cầu nên sẽ là nơi phù hợp để Gcalls tung sản phẩm.

Hiện khách hàng của Gcalls là các công ty đa quốc gia có nhiều chi nhánh ở Đông Nam Á như Kova, Ezcloud… Với tầm nhìn “làm cho một doanh nghiệp địa phương có thể phục vụ khách hàng toàn cầu” và với số vốn đầu tư từ VinaCapital, Gcalls sẽ mạnh dạn hơn trong việc tung sản phẩm ra thị trường Đông Nam Á, và tiến tới toàn cầu.

Hiện tại, mọi thứ vẫn đang chạy, hai bạn trẻ vẫn tin tham vọng của mình sẽ thành hiện thực trong tương lai không xa. Bởi khách hàng hiện nay của Gcalls là doanh nghiệp nhỏ và vừa, mà chỉ tính riêng ở Việt Nam là hơn trăm ngàn đơn vị. Còn tính chung cả khu vực thì con số này sẽ rất lớn.

Đâu là bí quyết sinh tồn của Tiki?

Với việc bán lẻ đa kênh sẽ trở thành xu thế tất yếu của ngành bán lẻ lẫn thương mại điện tử trong tương lai, Tiki đang đứng trước nhiều thách thức lớn, mà nếu không giải quyết tốt, họ có thể đánh mất vị thế hiện tại.

Đâu là bí quyết sinh tồn của Tiki?

CEO Tiki – Trần Ngọc Thái Sơn

Theo chia sẻ của CEO Tiki Trần Ngọc Thái Sơn, để cấu thành một hệ thống bán lẻ đa kênh tốt các doanh nghiệp buộc phải có 2 phần: nền tảng thương mại điện tử (TMĐT) online mạnh cộng với chuỗi cửa hàng offline rộng khắp.

Tuy nhiên, phần 2 của Tiki là một mảng trống, không kể các nhà kho ở các tỉnh thành. Trong khi đó, hiện nay việc xây dựng chuỗi cửa hàng dường như là nhiệm vụ bất khả thi của Tiki.

Tiki không đủ tài lực, nhân sự để làm chuyện đó vì hiện tại, về tài chính, họ vẫn phải gồng mình nhằm thực hiện mục tiêu tối thượng: chiếm lĩnh thị trường TMĐT Việt Nam.

Trong Chương trình CEO và Công nghệ mới đây, nhà sáng lập kiêm CEO Tiki, ông Trần Ngọc Thái Sơn cho biết, để giải quyết nhiệm vụ xây dựng chuỗi cửa hàng offline, công ty đang có ý định hợp tác với tất cả doanh nghiệp cũng như nhà bán lẻ nhỏ – vừa tại Việt Nam và cả thế giới, tận dụng hệ thống cửa hàng về hệ thống phân phối offline của họ.

Ông Trần Ngọc Thái Sơn cho rằng, bí quyết sống còn của Tiki ở năm 2018 và trong tương lai chắc chắn là hợp tác. Nếu được, nên chọn đối tác càng lớn càng tốt, vì có như thế mình mới có thể học tập những điều tốt nhất cũng như tạo cho mình áp lực lớn nhất, dù có thể hơi “ngợp” nhưng sẽ giúp chúng ta nhanh chóng lớn mạnh.

Ông có thể vẽ phác thảo một bức tranh về người tiêu dùng và xu hướng TMĐT chính trong năm nay?

Nói rằng tất cả mọi người đều chuyển sang mua online mà bỏ offline là không đúng. Hiện tại, TMĐT chỉ chiếm 3% trong ngành bán lẻ ở Việt Nam, trong tương lai chắc chắn sẽ lên 10 đến 15%.

Trong khảo sát gần nhất, Google cho biết, TMĐT ở Việt Nam phát triển nhanh hơn họ nghĩ. Họ nghĩ, TMĐT ở Việt Nam trong thời gian gần đây sẽ tăng 35%, tức là gấp 3 đến 4 lần bán lẻ truyền thống, nhưng chúng ta tăng tới 40 đến 45%. Thế nên, sự chuyển dịch từ offline lên mua online là không thể tránh khỏi.

Tuy nhiên, mình không lên kỳ vọng đó chuyển ngược lại, tức 97% online, 3% offline, điều đó sẽ không xảy ra và nó phi lý. Xu hướng bây giờ là sự kết hợp hài hòa không biên giới giữ online và offline, omni channel – bán lẻ đa kênh. Tôi tin đây sẽ là xu hướng của tương lai.

Có những thứ khách hàng tìm kiếm trên online nhưng mua offline, có những thứ họ coi ở offline và mua online. Thế nên, Tiki đang rất muốn hợp tác với các chuỗi bán lẻ, doanh nghiệp, các thương hiệu, vì tốt cho cả hai.

Hợp tác chính là kim chỉ nam hành động của Tiki trong năm 2018 và tương lai. Theo tôi: Nếu không hợp tác sẽ chết, vì đây đã là thời online – offline kết hợp. Ví dụ, khi “đánh cờ” với Alibaba, Tiki cần sự hậu thuẫn của các quốc gia và khu vực, nếu không muốn bị thôn tính.

Ông có thể nói rõ, đôi với doanh nghiệp hay các hệ thống bán lẻ khác sẽ được lợi ích cụ thể như thế nào trong quá trình hợp tác này?

Năm 2017, Tiki đã mở ra một sân chơi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là thương hiệu vừa và nhỏ, để các thương hiệu tự bán trên Tiki, tận dụng lượng traffic lớn của Tiki. Điểm khác biệt ở đây, Tiki sẽ là người trực tiếp quản lý chất lượng tất cả những mặt hàng có mặt trên chợ – marketplace.

Các doanh nghiệp khi đưa hàng lên đây có thể chủ động phối hợp với Tiki làm makerting, đẩy mạnh việc bán hàng, nhưng chất lượng vẫn phải được kiểm soát bởi hệ thống chuỗi cung ứng – supply chain của Tiki. Hàng phải về kho của Tiki, giao hàng là Tiki, nhận tiền là Tiki. Làm sao để cuối cùng khách hàng của Tiki nhận được hàng, dịch vụ đổi trả tốt và hàng hóa chất lượng.

Hơi khác với các công ty bán lẻ truyền thống, ưu tiên của Tiki luôn đến từ khách hàng. Sản phẩm nào được khách hàng yêu thích nhiều nhất sẽ được ưu ái nhiều nhất. Không phải nhà cung cấp cứ trả tiền là được khuyến mãi. Hiện tại, Tiki không có chính sách trả tiền để được khuyến mãi, chỉ cần hàng của bạn được đánh giá cao, review tốt, Tiki sẽ hỗ trợ nhiều.

Với dịch vụ logistic tốt của mình, Tiki sẽ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa san bằng khoảng cách với các ông lớn. Việc giao hàng chính là một điểm yếu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vì họ không có được hệ thống phân phối sâu rộng trên khắp cả nước.

Họ chỉ cần để hàng trong kho của Tiki, sẽ được miễn phí giao hàng trong 2 giờ, vốn là điều mà rất hiếm doanh nghiệp lớn làm được. Khách hàng và doanh nghiệp đều được hưởng lợi, Tiki chỉ lấy một phần phí rất nhỏ, chỉ vài phần trăm khi giao dịch thành công, giao được hàng và lấy được tiền.

Ông có thể nói rõ hơn về dự án Thành phố Tết hợp tác với Google? Vì sao Google chọn Tiki thay vì các công ty TMĐT khác? Ông đã “dụ” Google bằng cách nào?

Thực ra tôi chẳng dụ gì hết. Google sẽ chọn ra một đơn vị mà họ tin rằng, đơn vị đó có dịch vụ logistic tốt. Mơ ước của Google là làm sao mọi người dùng internet nhiều hơn.

Người ta sử dụng internet nội dung càng nhiều, thì giao dịch càng cao, Google càng có lợi, nên họ sẽ là những thứ cần thiết để đẩy mạnh chuyện đó. Bên cạnh đó, những nhãn hàng toàn cầu cũng cần những đối tác nội địa, hiểu người Việt để làm sao họ có thể bán được hàng nhiều nhất. Đó là quan hệ win – win giữa 3 bên: nhãn hàng – Google – đơn vị TMĐT nội địa là Tiki.

Việc được Google chọn không phải là thành công trong một đêm, mà là việc Tiki đã xây dựng thương hiệu trong 7 năm, phát triển dịch vụ giao hàng trong suốt 7 đến 8 năm vừa qua. Và đó là cái mà Google nhìn thấy.

Thực ra, đây là dự án đầu tiên mà Google làm ở Việt Nam và họ cũng chưa biết thành công, thất bại. Mình cũng vậy, vẫn sẵn sàng làm vì luôn muốn thử những cái mới. Cái này không phải là ai dụ ai hết, mà cả hai bên đều tự nguyện.

Năm nay, Tiki kết hợp với Google làm Thành phố Tết, còn mấy năm trước làm với Facebook. Facebook có Facebook store. Cứ mỗi năm, Tiki sẽ cử nhân viên của mình qua trụ sở Facebook, mình học cách xây dựng hệ thống dữ liệu khách hàng – build customer database, đây là một dự án lớn của Tiki, để hiểu khách hàng hơn, giúp họ có sự lựa chọn đúng đắn.

Quan niệm của Tiki là phải hợp tác, nhất là với những công ty giải nhất thế giới vì đây là thời đại toàn cầu hóa. Mình không thể ở nhà tự làm, trên thế giới có nhiều người giỏi và công ty giỏi để mình đến hợp tác. Hợp tác càng nhiều càng tốt, với tất cả các đối tác ở Việt Nam cũng như toàn thế giới.