Category Archives: Bussiness

Tư duy khác biệt của người giàu: Tiền bạc đến từ đâu?

Người giàu có vô số cách tư duy khác biệt. Họ có những chiến lược, niềm tin và triết lý sống “không giống ai”, CNBC nhận định.

Triệu phú tự thân Steve Siebold đã bỏ ra 26 năm để phỏng vấn những người giàu nhất thế giới trước khi đưa ra những phát hiện độc đáo của mình trong cuốn sách How rich people think (Cách suy nghĩ của người giàu).

Theo đó, triệu phú Steve Siebold nhận thấy, người giàu có vô số cách tư duy khác biệt. Họ có những chiến lược, niềm tin và triết lý sống “không giống ai”.

Và một trong những tư duy khác biệt nhất là người giàu tin rằng tiền bạc được tạo ra nhờ suy nghĩ, còn những người có mức thu nhập trung bình thì tin rằng tiền bạc được tạo ra nhờ thời gian và sự lao động.

“Phần lớn mọi người tin rằng cách duy nhất để kiếm nhiều tiền hơn là làm việc nhiều giờ hơn, trong khi đó, người giàu biết rằng suy nghĩ sáng tạo chính là kỹ năng đáng được trả mức lương cao nhất thế giới”, Siebold khẳng định.

Những người có thu nhập cao tin rằng tiền bạc luôn đến từ ý tưởng và việc tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề của số đông. Siebold nhận định: “Giải pháp của những vấn đề càng lớn, bạn càng kiếm được nhiều tiền… Kiếm tiền không dễ, nhưng rất đơn giản”.

Triệu phú Siebold không phải là người duy nhất tin rằng bí quyết làm giàu bắt nguồn từ chính tư duy của mỗi cá nhân. Được tôn vinh là “người tạo ra những triệu phú”, tác giả, diễn giả Napoleon Hill cũng đã từng đề cập đến vấn đề này trong cuốn sách nổi tiếng của ông được xuất bản năm 1937 Think and grow rich – thành quả của quá trình nghiên cứu 500 triệu phú tự thân.

“Sự giàu có bắt nguồn từ cách suy nghĩ. Người không thể làm giàu là những người bị hạn chế trong tư duy. Còn với những người giàu nhất, niềm tin sẽ giúp xóa bỏ tất cả những giới hạn”, Napoleon Hill viết trong cuốn sách thuộc hàng kinh điển của mình.

Lời khuyên từ người thành công: 6 điều cần lưu ý khi hợp tác kinh doanh

Có rất nhiều doanh nghiệp vượt trội được tạo nên dựa trên các mối quan hệ hợp tác kinh doanh ăn ý. Và ngược lại, cũng có không ít các doanh nghiệp lớn bị phá hủy bởi các đối tác không phù hợp.

Sau đây là chia sẻ của các doanh nhân – thành viên của The Oracles, về những điều cần được xem xét trước khi gia nhập vào cùng một đội với đối tác kinh doanh.

The Oracles là một nhóm chuyên gia tư vấn bao gồm các doanh nhân hàng đầu thế giới, họ chia sẻ các chiến lược thành công hàng đầu của mình để giúp đỡ người khác phát triển doanh nghiệp, sống một cuộc sống tốt hơn, và đạt được thành công nhanh hơn. Đây là những kinh nghiệm được đúc rút từ những thăng trầm trong sự nghiệp kinh doanh vượt trội của họ. 

1. Jack Canfield:Tin vào linh cảm của bản thân và làm rõ tất cả các điều khoản hợp tác bằng văn bản

Jack Canfield là đồng sáng lập thương hiệu nhượng quyền trị giá tỷ đô Chicken Soup for the Soul, tác giả cuốn sách bán chạy nhất của New York Times – The Success Principles (Các nguyên tắc dẫn đến thành công), và Giám đốc điều hành The Canfield Training Group.

Tất cả thành tựu của tôi đều đến từ các mối quan hệ hợp tác thành công: Đồng tác giả với Mark Victor Hansen bộ sách Chicken Soup for the Soul  (tạm dịch: Món canh gà cho tâm hồn bạn); với Janet Switzer trong cuốn The Success Principles (Các nguyên tắc dẫn đến thành công); và cùng với Patty Aubery và Russ Kamalski điều hành các công ty của tôi.

Hai tiêu chí hàng đầu lựa chọn đối tác của tôi là: Một, tôi phải thích và tin tưởng con người họ. Hai, họ phải có những thứ mà tôi không có.

Thích và tin tưởng họ là những điều chủ quan, nhưng tôi đã học được cách tin vào linh cảm của mình. Nếu cảm thấy có bất cứ điều gì không đúng, tôi sẽ không tiến hành hợp tác.

Một trong những sai lầm lớn nhất, chúng ta hay mắc phải khi ký kết hợp tác là không làm rõ các điều khoản về vai trò, giới hạn, bồi thường, cũng như chiến lược hoàn vốn của các bên bằng văn bản.

Sự tin tưởng lẫn nhau trong quá trình hợp tác là rất quan trọng, nhưng sự rõ ràng bằng văn bản khi tiến hành hợp tác cũng quan trọng không kém. Chúng ta sẽ có cách hiểu và diễn giải khác nếu các điều khoản này không được hệ thống lại bằng văn bản.

2. Tai Lopez:Tìm hiểu đối tác ít nhất một năm

Tai Lopez là nhà đầu tư và chuyên gia tư vấn cho nhiều doanh nghiệp trị giá hàng triệu đô la, người xây dựng đế chế trực tuyến với hàng triệu lượt theo dõi, kết nối trên Facebook hay Snapchat.

Trước khi tiến đến hợp tác kinh doanh, tiêu chí hàng đầu của tôi là phải biết người đó ít nhất một năm. (Một số nghiên cứu tâm lý học và khoa học cho thấy con người sẽ thực sự cho thấy họ là ai sau một năm).

Cũng giống như hẹn hò vậy, bạn phải có thời gian tìm hiểu đối phương trước khi đi đến hôn nhân. Quan hệ đối tác kinh doanh là một cuộc hôn nhân, bạn cần một số “dự án hẹn hò” kinh doanh ngắn hạn. Qua đó, bạn hãy học cách quan sát đối phương và nếu cần thiết thì tham khảo thêm thông tin về đối tác từ các tổ chức, ban ngành có thẩm quyền.

Nếu “dự án hẹn hò” này không hiệu quả, bạn tiếp tục tìm kiếm đối tác tiềm năng khác. Giống như bạn quyết định không gặp lại đối phương sau 3 lần hẹn hò. Bạn không cam kết lâu dài nên hạn chế được tổn thất cho cả hai bên. Sai lầm lớn nhất bạn có thể mắc phải đó là đi đến hợp tác quá nhanh.

Trước tiên, bạn cần tóm tắt sơ lược trách nhiệm của từng bên khi quyết định hợp tác. Nếu không, có thể bạn sẽ phải làm tất cả mọi việc.

Trong bản hợp đồng hợp tác, cần ghi rõ trách nhiệm của phía đối tác, các quyền hạn của bạn và chiến lược thoái vốn. Ví dụ, bạn sẽ làm việc A, B, C trong khoảng 30 giờ và cần 5 giờ để làm việc Z.

Bạn càng chi tiết rõ ràng bao nhiêu, thì khả năng hợp tác thất bại ít đi bấy nhiêu.

3. Roberto Orci:Tính toán kỹ lưỡng nhưng không miễn cưỡng

Roberto Orci  là hà sản xuất và biên kịch nhiều tác phẩm điện ảnh Hollywood và các chương trình truyền hình trị giá hơn 5 tỷ USD trên toàn thế giới.

Quan hệ hợp tác có thể sẽ rất tuyệt vời, nhưng cũng có thể trở thành cơn ác mộng tồi tệ. Do đó, bạn cần tính toán kỹ lưỡng để lựa chọn đúng đối tác.

Nếu một cộng một bằng hai, thì đó không phải là sự hợp tác lý tưởng. Một cộng một phải bằng ba. Việc hợp tác phải mang lại nhiều hơn tổng giá trị ban đầu của cả hai bên; nếu không, nó chỉ đơn giản là đem phần việc bạn không chuyên ra ngoài thuê công ty khác làm giúp.

Bạn cũng nên tìm kiếm những đối tác giỏi hơn mình. Tôi từng chứng kiến rất nhiều người đã để cái tôi ngăn cản họ xây dựng các mối quan hệ hợp tác tuyệt vời. Họ cảm thấy bị đe dọa bởi kỹ năng của đối tác và không thể vượt qua nó để đạt được một tầm nhìn lớn hơn. David Ogilvy – người được mệnh danh là “cha đẻ của ngành quảng cáo” từng nói,  “Bạn nên thuê những người thông minh hơn bạn”.

Cuối cùng, bạn cần cảm thấy vui vẻ với sự hợp tác này. Sau tất cả, bạn tiến đến cam kết lâu dài với một “cuộc hôn nhân kinh doanh” và nó sẽ trở thành một phần quan trọng của cuộc đời bạn. Sẽ có rất nhiều khó khăn thử thách bạn. Và điều gì sẽ xảy ra, nếu bạn không thoải mái với sự hợp tác này? Bạn có xu hướng chống lại sức thuyết phục về năng lực cũng như uy tín của đối tác – chắc chắn việc hợp tác sẽ khó thể lâu dài.

4. James Swanwick:Chụp x-quang não bộ của đối tác

James Swanwick là Giám đốc điều hành của Swanwick Sleep và 30-Day No Alcohol Challenge (Chiến dịch Thử  thách 30 ngày không thức uống chứa cồn).

Đầu tiên, tôi yêu cầu đối tác tiềm năng thực hiện các bài kiểm tra tính cách như HEXACO (đánh giá đối phương qua 6 yếu tố: sự trung thực – khiêm tốn, cảm xúc, hướng ngoại hay hướng nội, sự dễ chịu – dễ tức giận, sự tận tâm và sẵn sàng trải nghiệm) và Bộ ba đen tối (đó là 3 đặc điểm: sự nham hiểm, sự ái kỷ, sự thiếu đồng cảm), nó giống như chụp X-quang não bộ của họ. Giống như trong cuộc sống hôn nhân, việc hiểu rõ tính cách của đối tác kinh doanh là rất quan trọng.

Thứ hai, tôi tìm kiếm những người có cùng tầm nhìn nhưng lại có những kỹ năng khác hoặc bổ sung cho mình. Nó không chỉ đơn giản là thích hay không thích con người họ. Nếu bạn là một người hướng ngoại, hãy tìm người sống hướng nội. Nếu bạn là “bộ mặt” của công ty, có thể bạn cần một người vận hành giải quyết các vấn đề phía sau “hậu trường”. Và ngược lại, nếu bạn đã là người vận hành công ty, có lẽ bạn cần một người hướng ngoại hơn.

Sai lầm lớn nhất tôi từng mắc phải là hợp tác cùng lúc với 3 đối tác khác nhau. Nó giống như một nồi súp bị nấu đi nấu lại quá nhiều lần, sẽ mất ngon. Tôi từng nghĩ có nhiều tính cách và ý kiến khác nhau là tốt, nhưng nó lại tạo ra quá nhiều xung đột, sự vị kỷ, trở ngại, và làm chậm lại tất cả mọi thứ. Một mối quan hệ hợp tác hoàn hảo là 2-3 đối tác, nhưng 4 dường như quá nhiều.

5. Chris Plough: Trao đổi cởi mở, thẳng thắn

Chris Plough là cố vấn doanh nghiệp và doanh nhân nối tiếp (serial entrepreneur).

Với tôi, quan hệ hợp tác là dựa trên mối quan hệ lâu dài và các bên cùng có lợi (win-win). Hợp đồng chỉ đơn giản là ghi lại sự đồng thuận của các bên và là chính sách bảo hiểm khi vị trị lãnh đạo thay đổi. Để đạt được điều này, chúng tôi cần ngồi xuống để bàn bạc và làm rõ 2 điều:

Một, những giá trị cốt lõi. Chúng tôi rà soát lại sự đồng thuận và cho cả hai bên phát triển sự tin tưởng lẫn nhau qua việc hiểu rõ các yếu tố then chốt tác động đến đối tác. Đó sẽ là nền tảng vững chắc cho chúng tôi khi gặp khó khăn hoặc khi mối quan hệ trở nên căng thẳng trong quá trình hợp tác.

Hai, hành trang của doanh nghiệp. Chia sẻ hành trang mình mang đến khi hợp tác kinh doanh, để chắc chắn rằng chúng tôi đang bắt đầu đúng hướng. Nó gồm sơ lược những kỳ vọng và cam kết của cả hai bên được chia sẻ công khai và có thể được đáp ứng. Chúng tôi cũng chia sẻ những lo ngại cũng như mong muốn từ sự hợp tác, để có thể cùng nhau giải quyết ngay trong giai đoạn lập kế hoạch hợp tác, chứ không phải khi bắt đầu xảy ra xung đột.

Tất cả những điều trên sẽ tạo nên các mối quan hệ hợp tác sinh lợi và lành mạnh, giúp bạn vượt qua những áp lực trên thương trường.

6. Phil Suslow: Đừng ngại chấm dứt hợp tác

Phil Suslow là chủ sở hữu Oznium (sản xuất, kinh doanh hàng tiêu dùng và các sản phẩm công nghệ LED)

Bạn có thể tham khảo các bài kiểm tra tính cách như Trắc nghiệm tính cách – Myers-Briggs Type Indicator, giúp phát triển khả năng tự nhận thức về tác phong làm việc của bản thân cũng như hiểu hơn về cách thức điều hành của đối tác. Ở đây có một sự đối lập là bạn muốn sự cân bằng, nhưng không muốn làm đối phương “nổi điên” vì sự khác biệt. Khi gặp phải tình huống này, việc tham khảo thêm sự hòa hợp về mặt chiêm tinh học giữa bạn và đối tác tiềm năng có thể sẽ hữu ích.

Căn chỉnh các mục tiêu trong quá trình hợp tác. Ví dụ, bạn có muốn hoạt động như một doanh nghiệp kinh doanh cá thể thụ động hay xây dựng công ty để bán lại với giá cao ngất ngưởng? Bạn muốn dành bao nhiêu giờ mỗi tuần cho việc kinh doanh? Bạn muốn tuyển dụng nhân sự vị trí nào? Bạn có bất cứ dự án nào khác hoặc các cam kết nào xung đột với doanh nghiệp hoặc làm bạn sao nhãng quá nhiều? Gia đình bạn có tham gia vào điều hành công việc kinh doanh?

Sai lầm lớn nhất tôi mắc phải trong quan hệ hợp tác xuất phát từ nỗi sợ hãi đối đầu. Tôi phải gồng mình với những cuộc thảo luận khó khăn với đối tác. Có lần, tôi đã trì hoãn kết thúc một mối quan hệ hợp tác quá lâu mặc dù tôi biết nó không phù hợp. Nó gây ra rất nhiều bất ổn tinh thần và lãng phí năng lượng không cần thiết, thay vì tôi có thể xây dựng một mối quan hệ hợp tác phù hợp với mình hơn. 

2 xu thế và 3 thách thức của ngành vận tải và logistics Việt Nam

Việt Nam đang có nhiều lợi thế để phát triển ngành vận tải và logistics.

Theo công bố mới đây của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đang xếp ở vị trí 39 với điểm số LPI (Logistics Performance Index – chỉ số năng lực quốc gia về logistics) được cải thiện đáng kể trong bảng xếp hạng hoạt động Logistics 2018.

Việt Nam xếp thứ 3 trong khối ASEAN (Singapore vị trí 7 và Thái Lan vị trí 32) và được đánh giá là có hiệu suất dịch vụ logistics tốt hơn hẳn các thị trường có mức thu nhập tương đương.

Việt Nam đang có nhiều lợi thế để phát triển ngành vận tải và logistics: trao đổi thương mại toàn cầu gia tăng cùng với việc hội nhập kinh tế quốc tế và việc ký kết thành công các hiệp định tự do thương mại, vị trí địa lý thích hợp để xây dựng các trung tâm trung chuyển của khu vực Đông Nam Á, cơ sở hạ tầng: kho bãi, đường cao tốc, cảng biển, cảng hàng không được cải thiện.

Bộ Công thương đánh giá năm 2018 ngành logistics có mức độ tăng trưởng khoảng 12 – 14%. Số lượng các doanh nghiệp vận tải và logistics hiện nay là 3.000 doanh nghiệp, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy nội địa, đường hàng không…

Sự phát triển của ngành vận tải và logistics nhanh chóng được kỳ vọng đưa Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất mới trong khu vực có khả năng cạnh tranh với Trung Quốc.

Các doanh nghiệp trong ngành cũng thể hiện niềm tin tăng trưởng, khi có đến hơn 73% doanh nghiệp tham gia khảo sát của Vietnam Report cho rằng, toàn ngành vận tải và logistics sẽ đạt mức tăng trưởng trên 2 con số và gần 27% còn lại dự đoán đạt mức dưới 10% trong năm 2019.

2 xu thế chủ đạo của ngành vận tải và logistics Việt Nam

Về xu thế phát triển logistics trong thương mại điện tử – bán lẻ, đa số các chuyên gia được Vietnam Report hỏi đều cho rằng năm 2018 – 2019 sẽ chứng kiến sự bùng nổ của vận tải và logistics trong thương mại điện tử Việt Nam.

Sự gia tăng lưu lượng hàng hóa giao dịch qua các kênh trực tuyến khiến nhu cầu vận tải và logistics, đặc biệt là dịch vụ giao hàng nhanh tăng cao. Quy mô thị trường thương mại điện tử năm 2017 đạt 6,2 tỷ USD, tăng trưởng 24%, số lượng đơn hàng qua công ty giao hàng nhanh tăng trưởng trung bình 45% giai đoạn 2015 – 2020 và có thể đạt 530 triệu đơn hàng vào năm 2020.

Nhiều doanh nghiệp ngành bán lẻ như Vincommerce, Thế giới di động, FPT, Lotte, Aeon… đang định hướng phát triển thương mại điện tử, hay việc các ông lớn ngành thương mại điện tử như Alibaba, Amazon… gia nhập vào Việt Nam đã làm thị trường logistics sôi động hơn, đi kèm theo đó là yêu cầu phải có sự đầu tư công nghệ và độ kỹ lưỡng trong dịch vụ vận tải và logistics.

Về xu thế M&A ngành logistics, Việt Nam hiện đang có chủ trương huy động vốn từ khu vực tư nhân để đầu tư hạ tầng thông qua phương thức chuyển nhượng quyền khai thác một số hạ tầng (logistics, sân bay, cảng biển…), thu hút nhiều nhà đầu tư lớn với các thương vụ được dự tính sẽ có quy mô hàng tỷ USD.

Năm 2017 – 2018 chứng kiến nhiều vụ M&A lớn như Gemadept chuyển nhượng vốn cho CJ Logistics, Samsung SDS hợp tác với Minh Phương Logistics… Với đặc thù là ngành có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu cung cấp các dịch vụ 1PL và 2PL, sự tham gia của các tên tuổi lớn nước ngoài được kỳ vọng sẽ “vá lỗ hổng” về vốn, nhân sự, công nghệ… cho các doanh nghiệp trong nước.

3 thách thức tăng trưởng của các doanh nghiệp vận tải và logistics

Là ngành dịch vụ có nhiều cơ hội tăng trưởng nhưng thách thức của ngành cũng không hề nhỏ. Theo khảo sát của Vietnam Report, 3 thách thức lớn nhất của ngành vận tải và logistics Việt Nam hiện nay bao gồm: cơ sở hạ tầng như hệ thống cảng biển, kho bãi, kết nối… còn hạn chế, bất cập; hạn chế về quy mô vốn, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn chưa cao; các loại thuế, phí cầu đường và phụ phí cao.

Theo đánh giá của các doanh nghiệp trong ngành, cơ sở hạ tầng mặc dù đã được cải thiện so với trước đây nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Tuyến trục vận tải Nam – Bắc vẫn phụ thuộc rất lớn vào đường bộ, rất cần sự tham gia hơn nữa của ngành đường sắt. Sự phát triển bất cân đối của hệ thống cảng biến Việt Nam khi hơn 92% lưu lượng container phía Nam tập trung ở Cảng Cát Lái dẫn đến tình trạng quá tải, kẹt cảng… gây ra sự lãng phí rất lớn.

Vốn và nhân lực là nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp trong nước khó cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Đa số trên 70% doanh nghiệp vận tải và logistics đang hoạt động hiện nay có quy mô vốn vừa và nhỏ, 7% có vốn trên 1.000 tỷ đồng, trong đó chủ yếu nhóm vốn lớn là các doanh nghiệp đa quốc gia.

Về vấn đề chi phí logistics, chi phí vận tải tại Việt Nam hiện đang ở mức cao (gấp 3 lần so với các nước trong khu vực và thế giới) và không đồng đều ở các khu vực. Nguyên nhân chủ yếu do các loại thuế, phí cầu đường và phụ phí hiện khá cao, gián tiếp làm giảm khả năng cạnh tranh so với các nước khác.

Cải thiện hành lang pháp lý, cơ sở hạ tầng và ứng dụng IT

Khảo sát doanh nghiệp ngành vận tải và logistics của Vietnam Report cho thấy, họ rất kỳ vọng hành lang pháp lý, cơ sở hạ tầng và ứng dụng IT sẽ được ưu tiên cải thiện để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao hiệu quả dịch vụ vận tải và logistics tại Việt Nam trong năm 2019 tới đây.

Cùng với xu hướng phát triển của thương mại điện tử, sự gia nhập thị trường Việt Nam của các ông lớn bán lẻ nước ngoài làm gia tăng nguy cơ thâu tóm các kênh logistics địa phương khiến các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều bất lợi.

Hiện nay chi phí logistics đang chiếm tỷ trọng rất lớn trong chi phí doanh nghiệp, vô hình trung trở thành rào cản lớn nhất đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để giảm chi phí logistics, hầu hết các chuyên gia và doanh nghiệp trong ngành đều cho rằng cần phải đồng bộ hạ tầng giao thông, kết nối giữa các phương thức vận tải, đồng thời phát triển sàn giao dịch vận tải nhằm kết nối tốt nhất các chủ hàng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, tạo cơ sở cho doanh nghiệp logistics Việt Nam tham gia nhiều hơn vào chuỗi cung ứng, tránh tình trạng vận chuyển một chiều.

Ngành vận tải và logistics Việt Nam còn nhiều dư địa để phát triển. Đối với các doanh nghiệp, ngoài việc chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ, việc xây dựng uy tín thương hiệu cũng vô cùng quan trọng.

Với các doanh nghiệp sản xuất nước ngoài khi đặt chân vào Việt Nam, tìm kiếm và hợp tác với doanh nghiệp logistics uy tín là cầu nối trung gian kết nối vận chuyển an toàn hàng hóa tới tay đối tác và khách hàng, góp phần hoàn thiện chuỗi sản xuất – phân phối, tác động ngược trở lại giúp các doanh nghiệp vận tải và logistics Việt Nam tham gia sâu hơn, định vị tốt hơn trên bản đồ logistics toàn cầu.

(Theo The Leader)

Việt Nam thu 2,6 tỷ USD từ IPO

Năm 2018, Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu Đông Nam Á trong hoạt động IPO và được đánh giá là thị trường nổi bật trong tương lai.

Số liệu của hãng kiểm toán Ernst & Young vừa công bố cho thấy, tổng số tiền huy động được từ các thương vụ IPO của sàn chứng khoán Việt Nam năm 2018 là 2,6 tỷ USD, cao gấp 3,7 lần so với năm 2017. Con số này đã giúp Việt Nam vượt Singapore và Thái Lan dẫn đầu thị trường Đông Nam Á.

Hai trong 3 thương vụ IPO có giá trị lớn nhất Đông Nam Á thuộc về Vinhomes với 1,34 tỷ USD và Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam Techcombank với 923 triệu USD.

Trong khi hoạt động IPO ở Việt Nam tăng mạnh với các thương vụ đình đám thì tại Đông Nam Á, tổng số tiền thu về từ các thương vụ IPO trong năm nay giảm 34% so với cùng kỳ năm trước, đạt 7,1 tỷ USD. Số lượng thương vụ IPO cũng giảm 7% xuống còn 115. Trong số này, có 56 doanh nghiệp IPO huy động ít hơn 10 triệu USD.

Đứng thứ hai sau Việt Nam là Thái Lan với số tiền thu về từ các IPO là 2,5 tỷ USD, giảm 28% so với năm ngoái. Tiếp đến là Indonesia với 1,2 tỷ USD, tăng 66%. Còn Singapore, cả năm chỉ huy động được 500 triệu USD, giảm tới 85% so với năm trước.

Nguồn: Baker McKenzie, Oxford Economics.

Nguyên nhân tạo nên một năm im ắng với thị trường IPO của các nước Đông Nam Á, theo ông Theo Max Loh, chuyên gia kinh tế đang làm việc tại Ernst & Young là bất ổn kinh tế, căng thẳng thương mại, những vấn đề tồn tại ở các thị trường mới nổi. Đặc biệt, chiến tranh thương mại Mỹ – Trung đã ảnh hưởng đến thị trường vốn của khu vực, bởi các nước Đông Nam Á đều có quan hệ thương mại chặt chẽ với Trung Quốc.

Dự báo về hoạt động IPO trong giai đoạn 2019 -2021, các chuyên gia quốc tế đều đánh giá, Việt Nam sẽ là thị trường tiềm năng và hút vốn ngoại trong tương lại. Báo cáo của Oxford Economics và Baker McKenzie cũng nhấn mạnh, thị trường Việt Nam sẽ giữ vững ngôi đầu Đông Nam Á về số tiền huy động được từ các thương vụ IPO cho đến năm 2021.

“Sự trỗi dậy của Việt Nam và các nước đang phát triển khác ở Đông Nam Á có thể làm tăng cạnh tranh cho các sàn giao dịch chứng khoán trong khu vực và điều đó sẽ làm tăng áp lực buộc Singapore phải nhìn nhận lại chính họ để nổi bật hơn”, ông Tham Tuck Seng, lãnh đạo thị trường vốn PwC Singapore đánh giá hồi tháng 12.

Hồng Châu

Lữ hành bùng nổ, Việt Nam khát nhiên liệu máy bay

Việt Nam nhiều khả năng sẽ có 38 triệu hành khách quốc tế và 16 triệu du khách trong năm nay, theo dữ liệu từ Trung tâm Hàng không của CAPA.

Lữ hành bùng nổ

Nhu cầu nhiên liệu máy bay phản lực của Việt Nam sẽ tăng lên mức kỷ lục trong năm nay khi ngành du lịch của nước này thu hút một làn sóng du khách mới và đất nước các hãng hàng không đang nhanh chóng mở rộng.

Việt Nam nhiều khả năng sẽ có 38 triệu hành khách quốc tế và 16 triệu du khách trong năm nay, theo dữ liệu từ Trung tâm Hàng không của CAPA. So với con số 18 triệu hành khách và 8 triệu du khách trong năm 2015.

“Nhu cầu hàng không tại Việt Nam đang bùng nổ… Tiêu thụ nhiên liệu tại Việt Nam sẽ đạt mức cao kỷ lục trong năm nay và sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới”, Trần Hoài Nam, Phó chủ tịch của Vietjet, nhận định. Ông nói thêm tăng trưởng lượng khách nước ngoài của Việt Nam là cao nhất ở Đông Nam Á, tăng 8,7% mỗi năm.

Lưu lượng giao thông tăng mạnh đã làm tăng nhu cầu nhiên liệu máy bay tại Việt Nam. Đến tháng 11, Việt Nam đã nhập khẩu 1,87 triệu tấn nhiên liệu tương đương 14,8 triệu thùng và tăng 18% so với cùng kỳ năm ngoái.

Năm 2018, nhu cầu nhiên liệu máy bay tại Việt Nam được ước tính sẽ tăng khoảng 20% đến 25%. Ảnh: Petrolimex

Năm 2018, nhu cầu nhiên liệu máy bay tại Việt Nam được ước tính sẽ tăng khoảng 20 đến 25% so với năm 2017, chủ yếu là do sự gia tăng tiêu thụ của các chuyến bay quốc tế, ông cho biết một thương nhân có trụ sở tại Hà Nội nhà cung cấp nhiên liệu, những người yêu cầu vẫn chưa được xác định do chính sách của công ty.

Việt Nam hiện tiêu thụ khoảng 18 triệu thùng nhiên liệu máy bay mỗi năm, theo dữ liệu của Công ty Cổ phần Nhiên liệu bay Petrolimex.

Đến năm 2035, Việt Nam sẽ có 150 triệu hành khách hàng không mỗi năm, gần gấp bốn lần so với năm 2015, theo dự báo 20 năm từ Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA). So với cùng kỳ, Ấn Độ sẽ có 438 triệu hành khách, gấp 3,6 lần so với năm 2015, trong khi Trung Quốc sẽ có 1,3 tỉ hành khách, gấp 2,7 lần so với năm 2015, IATA cho biết.

Vào tháng 11, Việt Nam đã cấp giấy phép cho hãng hàng không Bamboo, sẽ là hãng hàng không thứ năm của nước sau Vietnam Airlines, Jetstar Pacific Airlines, Vietjet và Vasco.

Bamboo dự kiến ​​sẽ khởi động các chuyến bay đầu tiên trong thời gian tới. Vào tháng 7, công đã ký một thỏa thuận sơ bộ để mua 20 chiếc máy bay phản lực 787-9 thân rộng từ nhà sản xuất Boeing của Mỹ và đồng ý một bản ghi nhớ với Airbus để mua 24 chiếc máy bay A320neo thân hẹp vào tháng 3.

VietJet, hiện đang vận hành 60 máy bay Airbus, đã ký thỏa thuận trị giá 6,5 tỉ USD để mua 50 máy bay mới.

Nhiên liệu vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu

Nhập khẩu nhiên liệu máy bay phản lực Việt Nam sẽ tiếp tục tăng mạnh do cả nước chỉ có hai nhà máy lọc dầu là Dung Quất và Nghi Sơn. Peter Lee, một nhà phân tích tại Fitch Solutions Macro Research cho biết, các nhà máy lọc dầu Dung Quất và Nghi Sơn chủ yếu phục vụ cho việc sản xuất xăng và dầu diesel, và do đó, năng suất nhiên liệu máy bay tương đối thấp ở mức 5%.

Nghi Sơn, một khi hoạt động đầy đủ, sẽ sản xuất khoảng 4,6 triệu thùng nhiên liệu máy bay mỗi năm, một nguồn tin tại nhà máy lọc dầu cho biết. Dung Quất có thể sản xuất tới 2,3 triệu thùng mỗi năm, theo trang web của công ty. Việt Nam sẽ phụ thuộc vào nhập khẩu để đáp ứng hầu hết nhu cầu nhiên liệu máy bay trong tương lai. Việt Nam nhập khẩu hầu hết nhiên liệu máy bay từ các nhà máy lọc dầu ở Singapore, Thái Lan và Trung Quốc.

Mặc dù triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ đối với ngành hàng không Việt Nam, tăng trưởng hành khách có thể không đồng đều do các sân bay hầu như đã hoạt động hết công suất. Sân bay lớn nhất Việt Nam Tân Sơn Nhất, phục vụ TP.HCM ở phía Nam, nhận thêm khoảng 10 triệu hành khách mỗi năm so với nó được thiết kế để phục vụ. Sân bay Long Thành khi hoàn thành sẽ phục vụ 25 triệu hành khách mỗi năm bắt đầu từ năm 2025.

Như Mai / SCMP