Category Archives: News

5 bí quyết thành công của một nhà đầu tư Shark Tank

Bạn phải thiết lập mục tiêu. Nếu không biết mình muốn gì, bạn sẽ không bao giờ có được nó.

Chia sẻ trên kênh CNBC, doanh nhân Daymond John – nhà sáng lập thương hiệu quần áo FUBU trị giá 6 tỷ USD, đồng thời là nhà đầu tư trên chương trình Shark Tank cho biết, thành công ông có được ngày hôm nay nhờ vào hàng loạt vấp ngã, sai lầm cộng với lòng quyết tâm và kiên trì.

Ông từng bị từ chối nhiều lần, mất mát không ít và đôi lúc bế tắc, không tìm thấy lối ra. Tuy nhiên, chặng đường gian khổ ấy đã giúp John nhận ra sự dũng cảm được sinh ra khi bạn buộc phải đứng lên và leo qua bức tường thử thách.

Shark Tank là chương trình truyền hình thực tế của Mỹ, phát sóng trên kênh ABC. Trong chương trình, người chơi – các doanh nhân khởi nghiệp thực hiện các bài thuyết trình trước một hội đồng các nhà đầu tư (Shark), và những nhà đầu tư này sẽ lựa chọn đầu tư hoặc không. Shark Tank  đã hai lần giành giải thưởng Primetime Emmy Award cho hạng mục Cấu trúc chương trình truyền hình thực tế xuất sắc nhất.

Dưới đây là 5 bí quyết đầu tư thành công được tỷ phú Daymond John đúc kết từ sự nghiệp kinh doanh của mình:

1. Thiết lập mục tiêu

Bạn không thể đạt mục tiêu nếu bạn không biết mình đang theo đuổi điều gì.

Cha của John mất khi ông mới 10 tuổi. Mẹ ông phải làm mọi việc để kiếm sống và cho rằng ông cũng nên phụ giúp chi trả hóa đơn trong nhà. Joh được giao các việc lặt vặt như phát tờ rơi quảng cáo hay làm việc tại trung tâm thương mại tại thành phố New York – nơi ông lớn lên.

Ông đã bắt đầu công việc kinh doanh khi còn là đứa trẻ: Ông trộm bút chì của những cậu bé trong trường mà ông không thích, sơn tên các cô bạn chung lớp lên sau đó bán chúng cho họ. Khi là thiếu niên, John đã cố gắng tổ chức một bữa tiệc khổng lồ trên thuyền. Ông đã dùng hết số tiền trong thẻ tín dụng, vay mượn thêm để có được 20.000 USD thực hiện sự kiện lớn đó. Về sau John thừa nhận, đó là một canh bạc thực sự.

Vì không đủ tiền thuê chiếc thuyền sang trọng Princess Cruise Line, ông thuê chiếc Circle Line giá rẻ hơn. Ông chi 8.000 USD để thuê DJ, 3.000 USD cho hệ thống âm thanh, 3.000 USD cho việc phát tờ rơi quảng cáo, 2.000 USD cho nhân viên trên thuyền và phần còn lại dùng để mua rượu.

Cuối cùng, sự kiện đã thất bại thảm hại khi có rất ít khách đến dự. Bữa tiệc chỉ thu về 4.000 USD, và John lỗ 16.000 USD. Ông nhìn vào chiếc thuyền Princess Cruise Line kế bên tấp nập người ghé thăm mà không hiểu tại sao chương trình của mình lại thất bại.

“Thành công được hội tụ từ nhiều yếu tố. Ngày đó, tôi đã không biết rằng chỉ với việc phát tờ rơi và mạo hiểm mọi thứ mình có cũng không giúp tôi thành công được. Mãi nhiều năm sau tôi mới nhận ra ngoài đam mê làm giàu, thành công còn cần có niềm đam mê. Tôi thất bại vì tư duy của mình”, ông chia sẻ.

Lớn hơn một chút, ông không biết mình muốn gì. “Tôi không có ước mơ hay khát vọng nào vào thời điểm đó – John kể – Cho đến khi hip-hop bùng nổ và du nhập vào Queens”. John cho biết, đó là lần đầu tiên ông cảm thấy thích một thứ hơn tất thảy mọi thứ khác. Ông cho biết: “Tôi muốn trở thành một phần của hip-hop dù chưa biết làm thế nào. Nó ảnh hưởng mạnh đến tôi. Tôi sẽ sống, chết và thành công trong thế giới đó”.

Tuy nhiên, ước mơ đó có phần bất khả thi bởi John không thể hát rap, cũng không biết nhảy hip-hop. Dù vậy ông bị hấp dẫn bởi Russell Simmons, người mà theo John, là “một trong những doanh nhân nổi tiếng nhất mà tôi được tiếp xúc trong cộng đồng hip-hop, kiếm tiền từ việc bán nhạc”. Russell Simmons là nhà đồng sáng lập hãng đĩa hip-hop Def Jam, người tạo ra thương hiệu thời trang Phat Farm. Russell được xem như người giàu thứ ba trong làng nhạc hip-hop với tổng tài sản là 325 triệu USD.

Một đêm nọ, khi  John đang tham dự một buổi biểu diễn hip-hop từ cánh gà, ông nhìn ra sân khấu và nhận ra rằng tất cả mọi người trong khán phòng đều mặc một loại đồng phục. Ông nhận ra mình vừa phát hiện một điều mới mẻ. Ông muốn thiết kế trang phục cho cả cộng đồng hip-hop.

“Trước đó, cuộc sống của tôi chỉ toàn màu trắng và đen. Tôi đã không biết mình muốn làm gì trong đời nhưng nó chính là khoảnh khắc đó, lần thứ hai cuộc đời tôi thay đổi từ trắng, đen sang màu sắc sặc sỡ”, John nói.

Khoảnh khắc nhận ra đó dẫn John đến với bí quyết thành công đầu tiên của mình: Bạn phải thiết lập mục tiêu. Nếu không biết mình muốn gì, bạn sẽ không bao giờ có được nó.

Khi nhận ra mục tiêu của mình là gì, John bắt đầu nỗ lực hết sức để đạt được nó. Ông gọi cho mẹ và nói: “Con muốn thiết kế quần áo cho dân chơi hip-hop. Họ rap, họ hát nhưng chẳng có ai may đồ đậm chất hip-hop cho họ cả. Con sẽ làm điều đó”.

2. Chuẩn bị mọi thứ

Bước đột phá đầu tiên của John trong việc kinh doanh là may và bán mũ. Mẹ ông đã biến mảnh vải giá 40 USD thành những chiếc mũ và ông kiếm được 800 USD từ việc bán chúng. Với số tiền lời lớn thế này, ông vui vẻ lái xe về nhà và đâm vào chiếc xe khác. Tai nạn đó chính xác đã tốn của John 800 USD.

“Mùi vị thành công đầu tiên của John đi nhanh như lúc nó đến, nhưng tôi vẫn không quên cảm giác đó”, John cho biết.

Sau này, khi sáng lập thương hiệu thời trang FUBU (viết tắt của cum từ “For Us, By Us”), thành công cũng nhanh chóng đến với John. Ông cầm 10 chiếc áo sơ mi đến những buổi quay video âm nhạc hip hop của các ca sĩ nổi tiếng. Ông từng ngồi lì trước nhà của LL Cool J và thuyết phục chàng ca sĩ rapper, diễn viên tài năng vốn kín tiếng này chụp một bức hình mặc áo sơ mi in thương hiệu FUBU.

Ông đem bức ảnh đó cùng các mẫu áo FUBU đến buổi trình diễn thời trang dành cho nam giới tổ chức một năm 2 lần tại Las Vegas để giới thiệu và tìm kiếm khách hàng. Tại đó, ông nhận được nhiều đơn đặt hàng với tổng trị giá 300.000 USD.

Sự thành công làm ông choáng váng: “Tôi có nhiều tiền! Tôi thật giàu! Tôi sẽ chuyển đến Tahiti”, ông tự nói với mình trên chuyến bay trở về nhà.

Để có vốn lưu động sản xuất lô quần áo FUBU đầu tiên, John  đi vay nợ ngân hàng. Tuy nhiên, ông cho biết mình bị từ chối không dưới 27 lần. Sau đó, mẹ ông cầm cố ngôi nhà của gia đình tại Hollis, Queens với giá 100.000 USD để John xây dựng một nhà máy tạm thời.

Số tiền này nhanh chóng giảm còn 500 USD khi John mua thêm máy may và vải thô. Tuy nhiên, John không thể hoàn thành đủ số lượng áo sơ mi trong đơn đăt hàng. Trong nỗ lực gọi vốn cuối cùng, mẹ John đăng một mẩu quảng cáo trên báo địa phương và đại diện xưởng may của “gã khổng lồ” Samsung đã gọi cho John. Họ đề nghị tài trợ vốn cho ông với điều kiện ông phải kiếm được 5 triệu USD doanh thu trong vòng 3 năm tới.

“Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Tôi đã mất nhà. Tôi cũng cạn sạch tiền. Nhưng tôi cũng biết mình sẽ không thể nào tự bán được 5 triệu USD tiền quần áo chỉ trong 3 năm”, John nói.

Tuy nhiên, sau đó, nhờ nghiên cứu kỹ thị trường, chiến lược kinh doanh, ông tự tin mình có thể làm được. Và quả thực, ông đã bán được 30 triệu USD quần áo chỉ trong ba tháng đầu tiên.

Những sự kiện xảy ra trong thời gian đầu ra mắt FUBU đã dạy John bài học về tầm quan trọng của việc lên kế hoạch kỹ càng. Khi ông chưa đầu tư nghiên cứu chi phí sản xuất và tìm hiểu công việc điều hành, ông gần như tự giết chết công ty và làm mất nhà của mẹ. Nhưng khi ông biết mình phải làm gì, dự trù được các khoản tài chính cần có, ông đã đồng ý hợp tác với Samsung, vì ông biết mình có khả năng làm được.

3. Yêu những gì mình làm

Thành công mà John có được là nhờ vào niềm đam mê sâu sắc của ông dành cho công việc, CNBC nhận định. John xác nhận điều này: “Tôi yêu những gì tôi làm. Và tôi biết những người thành công đều có một đặc điểm chung, đó là họ yêu công việc của mình”.

4. Bạn chính là đại diện thương hiệu của mình

Sau thành công của FUBU, John bắt đầu xuất hiện nhiều hơn trên truyền hình, chia sẻ về công việc kinh doanh cũng như hành trình đưa những chiếc áo sơ mi từ đường phố vào trung tâm thương mại tại Queens, và sau này phát triển thành một thương hiệu trị giá 6 tỷ USD. Với phong thái đĩnh đạc, cách thể hiện chân thành một cách thuyết phục, John đã được mời làm một nhà đầu tư trên chương trình khởi nghiệp Shark Tank.

John cho biết, tham gia Shark Tank giúp ông nhận ra một điều, đó là các nhà đầu tư không đầu tư vào công ty, họ đầu tư vào con người. Và trong thời đại kỹ thuật số, thương hiệu cá nhân là thứ đặc biệt quan trọng.

John khuyên mỗi người nên có riêng 2 đến 5 từ có thể miêu tả bản thân, bao gồm việc bạn là ai và bạn làm gì với cuộc sống của mình. Tuy nhiên, đó phải là những từ dễ nhận biết, không dành riêng cho bạn trong trường hợp bạn đang đứng trước các nhà đầu tư mạo hiểm. Các nhà đầu tư sẽ có những cách đánh giá khác nhau về bạn và công ty trước khi quyết định rót vốn. Do đó, bạn nên lựa chọn kỹ càng và kiên định với những từ miêu tả bản thân và công ty, dù là đang mời tài trợ, quảng cáo facebook hay gặp gỡ người mới.

5. Đừng từ bỏ

Bí quyết thành công cuối cùng của John được lấy hình tượng từ cô cá Dory trong loạt phim hoạt hình nổi tiếng Finding Nemo (tạm dịch: Truy tìm Nemo). “Bạn có thể nghĩ mình giống như cô cá xanh đãng trí Dory hoặc có thể không. Nếu bạn nghĩ rằng có nhiều thứ trong cuộc sống đang cố kéo bạn tụt lại phía sau thì tôi sẽ chia sẻ câu chuyện của mình. Tôi vốn mắc chứng khó đọc. Tôi còn lùn. Tôi lại nghỉ học giữa chừng, không học tiếp lên đại học. Tôi chẳng quen ai nổi tiếng, cũng không có họ hàng với bất kỳ ngôi sao nào. Tôi có thể nói mình là con trai của Elton John nhưng ai tin tôi chứ”, ông nói.

“Tôi không thể hát rap, cũng không biết ném bóng rổ, chơi bóng chuyền hay bất cứ thứ gì mọi người có thể chơi với một trái bóng. Nhưng tôi đã thành công và ngồi đây chia sẻ với bạn những điều này. Một phần vì tôi là người kiên trì”, John chia sẻ.

Ông cho biết, lý do khiến FUBU thành công trong những ngày đầu ra mắt là vì ông liên tục tìm thấy giải pháp giải quyết vấn đề vào những khoảnh khắc mà ai cũng có thể buông bỏ.

“Tôi từng thất bại nhiều hơn thành công. Dù vậy, cánh cửa thành công không bao giờ khép lại với những người luôn cố gắng và nỗ lực. Bạn phải luôn nỗ lực và đừng bao giờ từ bỏ”, nhà đầu tư Shark Tank Daymond John nhấn mạnh.

Amazon: Một điển hình công ty bền vững

Theo công bố mới đây trên website CNBC.com, khoảng 55% người tiêu dùng tại Mỹ đã và đang tìm kiếm sản phẩm để mua trực tuyến từ website Amazon.com, trong khi chỉ có 28% người dùng cho biết họ sử dụng các công tụ tìm kiếm phổ biến hiện nay, như Google, Bing, Facebook… để tìm kiếm sản phẩm.

Cũng theo khảo sát này, ngay cả khi khách hàng đã tìm thấy sản phẩm họ muốn mua trên website của một bên bán lẻ khác, thì 90% trong số đó vẫn sẽ truy cập vào Amazon.com để so sánh giá cả và tiến hành “cân đo đong đếm” các lựa chọn trước khi thực hiện mua hàng.

Kết quả của cuộc khảo sát này, cùng với việc đầu tháng 10 vừa qua tạp chí Forbes vinh danh CEO của Amazon – Jeff Bezos chính thức trở thành người giàu thứ hai ở nước Mỹ, với số tài sản ước tính 67 tỉ USD, một lần nữa khẳng định sự “màu mỡ” của thị trường thương mại điện tử trong tương lai cũng như tái khẳng định sự thành công của một trong những công ty được mệnh danh là “bền vững nhất thế giới” (nhận định của Chamath Palihapitiya, hiện là CEO của công ty đầu tư mạo hiểm Social Capital; Chamath Palihapitiya cũng tin rằng chỉ 10 năm nữa, mảng bán lẻ của Amazon sẽ đạt giá trị 1.000 tỉ USD).

Lý giải cho nhận định này của Chamath Palihapitiya, hãy cùng nhìn lại con đường thành công của Amazon:

Trong lĩnh vực thương mại điện tử, rất khó tạo ra khác biệt…

Đó là vì hầu như các doanh nghiệp đều có chất lượng sản phẩm và dịch vụ khách hàng tương tự nhau. Jack Trout và Steve Rivkin từng đề cập trong quyển Khác biệt hay là chết, rằng chất lượng và định hướng vào dịch vụ khách hàng hiếm khi là những ý tưởng khác biệt. Điều này đặc biệt đúng trong những ngành kinh doanh dịch vụ như thương mại điện tử, những ngành không trực tiếp tạo ra sản phẩm.

Trong một cuộc phỏng vấn tại chương trình Four Peaks TV show, Jeff Bezos từng tiết lộ, Amazon thực sự không quan tâm về việc bị các đối thủ cạnh tranh. Bởi không giống như Apple tạo ra iPhone làm thay đổi thế giới, Facebook tạo ra mạng xã hội lừng danh cùng tên, Microsoft tạo ra hệ điều hành Windows, thì trong ngành thương mại điện tử, nơi Amazon tồn tại, mọi thứ rất dễ bị các đối thủ “sao chép”.

Cụ thể, mô hình hoạt động của các đối thủ và của Amazon đều tương đối “na ná” nhau: Một website để bán hàng, khách hàng chọn lựa rồi đặt hàng qua mạng, sau đó Amazon hay bất kỳ đối thủ của họ sẽ tiến hành xác nhận đơn hàng, giao hàng, thu phí vận chuyển với những đơn hàng dưới hạn mức cụ thể.

Song song đó là đẩy mạnh chương trình affiliate marketing (tiếp thị liên kết), đẩy mạnh quảng cáo, truyền thông, PR… Còn về sản phẩm thì chỉ khác nhau đôi chút về cách miêu tả sản phẩm, hình ảnh, giá…, trong đó chênh lệnh giá thường không lớn, tùy thuộc vào việc Amazon hay các đối thủ của họ thỏa thuận với nhà sản xuất.

Đây cũng chính là lý do mà theo công bố của CNBC.com, dù Amazon là trang thương mại điện tử khổng lồ, thì cứ năm người được khảo sát sẽ có một người cho biết “sản phẩm nhái và sợ bị lừa” là điều khiến họ lo lắng nhất khi mua hàng trên web này.

… Vì vậy, càng to lớn, có “đuôi dài”, Amazon càng mạnh và khó bị đánh bại

Kinh doanh trong lĩnh vực khó tạo được sự khác biệt rõ ràng như vậy, Amazon đã thực hiện xuất sắc chiến thuật “Cái đuôi dài” để biến mình thành gã khổng lồ lớn nhất, “nuốt” gần hết thị trường..

Chris Anderson, tác giả của Cái đuôi dài, một trong những quyển sách nằm trong danh mục Best seller (sách bán chạy nhất) của tờ The New York Times đồng thời nhận giải Gerald Loeb, giải thưởng dành cho quyển sách kinh doanh hay nhất năm, thì lý thuyết Cái đuôi dài, được hiểu đơn giản là thực chất, gần như mọi sản phẩm trên thị trường đều có người mua, dù sức mua chỉ là một vài lần mỗi năm. Khác với những sản phẩm “hot”, sản phẩm đại chúng, những sản phẩm “ngách” này dù có sức mua kém đều đặn như vậy, nhưng nếu tập hợp tất cả doanh thu của những sản phẩm ấy lại, thì nó có thể chiếm tới… 98% doanh thu của một doanh nghiệp.

Và đây chính là chiến thuật của Amazon, họ không ngừng mở rộng số lượng và quy mô sản phẩm của mình, tạo ra một thị trường ngách rộng lớn với hàng triệu sản phẩm khác nhau. Có thể nhìn thấy điều này qua quy mô kho hàng mà Amazon sở hữu.

Theo tiết lộ của Amazon vào cuối năm 2015, hãng đã sở hữu tổng cộng hơn 80 kho hàng khác nhau trên khắp thế giới, trong đó có những kho hàng như ở Phoenix, Arizona (Mỹ) có diện tích bằng 12 sân bóng đá. Trung bình một nhân viên làm việc trong kho hàng ở Amazon phải di chuyển từ 7 dặm đến 15 dặm (khoảng 12km đến 24km) một ngày. Đi kèm với đó là một đội ngũ nhân viên khổng lồ, hơn 100.000 người cùng 10.000 robot hỗ trợ.

Ngoài ra, Amazon còn sở hữu một hệ sinh thái khổng lồ, tập hợp những con người ăn, ngủ, cũng như “thu – chi” cùng Amazon. Đó không chỉ là một lượng lớn khách hàng trung thành, thường xuyên nhận xét, đánh giá các sản phẩm trực tiếp trên website, mà còn là những freelancer (người làm việc tự do), những cộng tác viên… khi họ thường phát triển một website, một trang blog, một ứng dụng… sau đó liên kết với Amazon, bán hàng và nhận hoa hồng.

Theo Venkatash Rao, một cây bút người Mỹ, từng viết về mạng lưới này của Amazon (bài viết đã được đăng trên trang Forbes) thì: “Trong hàng thập niên qua, cuộc sống của tôi đã bị gắn chặt với Amazon. Tôi không chỉ chi hàng ngàn USD vào trang web mà còn đưa blog của mình (ribbonfarm.com) tham gia chương trình affiliate marketing của Amazon và bán sách của mình trên đó. Mười năm trước, tôi từng là một biên tập viên cho nhiều đầu sách, nhưng giống như hàng ngàn freelancer khác, hiện giờ nguồn thu nhập và mọi hoạt động chính của tôi đều chỉ xoay quanh Amazon”.

Bài học chiến thuật sales từ người… bán ớt

Những người bán ớt luôn gặp cùng một câu hỏi: “Ớt này có cay không?”. Phải trả lời thế nào đây? Nói cay thì lỡ phải người không thích ăn cay sẽ lập tức bỏ đi và không mua nữa; còn nói không cay thì lỡ phải người thích ăn cay thì sao?

Một ngày, tôi đứng bên cạnh một gánh bán ớt của một người phụ nữ, xem chị ta giải quyết vấn đề đầy nghịch lý này như thế nào. Nhân lúc chưa có người mua, tôi tự tỏ ra thông minh mách chị: “chị chia ớt thành hai phần, gặp phải khách thích ăn cay thì chị chỉ phần bên này, còn gặp khách không thích ăn cay thì chị chỉ phần bên kia”.

Chị bán ớt nhìn tôi cười và nói: “Không cần phải thế”.

Đúng lúc này, có một khách hàng đến hỏi mua, câu hỏi quả nhiên vẫn như cũ: “Ớt này có cay không?”. Chị bán hàng rất chắc chắn nói với họ: “quả đậm màu cay, quả nhạt màu không cay”. Người mua nghe vậy tin là thật, chọn ớt, trả tiền rồi vui vẻ rời đi.

Một lúc sau, những quả ớt nhạt màu còn lại chả là bao.

Lại có một người đến mua và vẫn câu hỏi như vậy: “Ớt này có cay không?”. Chị bán ớt nhìn gánh ớt của mình, trả lời một cách chắc chắn: “Quả dài cay, ngắn không cay”. Quả nhiên, người mua nghe theo lời phân loại của chị để chọn ớt. Và kết quả là chả mấy chốc, quả ớt dài cũng bán gần hết.

Nhìn vào gánh ớt còn lại của chị, toàn là ớt ngắn và đậm màu, tôi thầm nghĩ: “Lần này xem chị giải quyết thế nào?”.

Và khi một người mua nữa đến hỏi: “Ớt này có cay không”, chị bán hàng vẫn rất tự tin trả lời: “Quả cứng cay, mềm không cay”.

Tôi thầm bái phục chị, không phải sao khi ớt bị phơi nắng cả ngày thì rất nhiều quả bị mất nước mà mềm oặt lại.

Rồi chả mấy chốc, người phụ nữ bán ớt bán hết gánh ớt của mình, trước khi về nhà chị nói với tôi: “Cách em bảo với chị, ai bán ớt cũng biết, thế nhưng cách bán của chị thì chỉ có mình chị biết”.

Nghe vậy tôi chợt nhận ra rằng: Sự khôn ngoan trong cuộc sống có thể được viết thành sách, nhưng bạn không thể bê y nguyên sách khi áp dụng vào cuộc sống, bởi cuộc sống luôn sống động và đòi hỏi bạn phải linh hoạt và sáng tạo.

Bán hàng là cả một nghệ thuật, chủ yếu là làm thế nào để khách hàng hiểu rõ hơn và chấp nhận sản phẩm của bạn, và phải dùng phương pháp nào khiến khách hàng trong vô vàn sự lựa chọn lại chọn sản phẩm của bạn.

Trong bán hàng (sales), có thể liên tục thay đổi chiến thuật, nhưng “chiến thuật tâm lý” luôn là chiến thuật nòng cốt ẩn giấu bên trong mọi chiến thuật khác. Người bán hàng thành công luôn là người có chiến thuật kinh doanh phù hợp và đúng đắn.

Ngoài bán hàng ra, bạn còn cần bán cả những gì?

Customer doanhnhansaigon

Khách lạ mua sự lịch sự

Khách quen mua sự nhiệt tình

Khách hàng bận rộn mua sự hiệu quả

Khách hàng rảnh rỗi mua sự kiên nhẫn

Khách hàng có tiền mua sự tôn quý

Khách hàng không có tiền mua giá cả phải chăng

Khách hàng sành điệu mua sự thời trang

Khách hàng chuyên nghiệp mua sự chuyên nghiệp

Khách hàng thích hưởng thụ mua dịch vụ

Khách hàng thích hư danh mua sự vinh dự

Khách hàng hào phóng mua sự trượng nghĩa

Khách hàng keo kiệt mua lợi ích

Khách hàng kén chọn mua sự chi tiết, tỉ mỉ

Khách hàng dễ tính mua sự đồng cảm

Khách hàng hay do dự mua sự bảo đảm.

Business 4.0: Doanh nghiệp sống sao trong thời đại số

Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2016 (World Economic Forum) Davos, Industry 4.0 (Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4) được lấy làm chủ đề xuyên suốt trong 4 ngày làm việc của hội nghị (từ 20-23/1), với sự tham gia của 2.500 nhà lãnh đạo các quốc gia và các tập đoàn hàng đầu trên toàn cầu.

Đây là cuộc cách mạng đang diễn ra âm thầm và ngày càng trở nên mạnh mẽ, tác động sâu sắc lên các doanh nghiệp toàn cầu. Theo đó, những doanh nghiệp không hay chậm thay đổi để theo kịp xu hướng này sẽ dần dần bị thay thế và đào thải. Trong những năm gần đây, nhiều thương hiệu lớn bị phá sản hoặc sáp nhập là minh chứng cho điều đó.

Cho đến thời điểm hiện tại, thế giới đã diễn ra ba cuộc cách mạng công nghiệp lớn. Lần thứ nhất vào năm 1785 – chứng kiến sự trỗi dậy của nước Anh khi phát minh ra động cơ hơi nước và cơ khí hóa toàn bộ nền sản xuất đương thời. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra bắt đầu từ năm 1870, khi năng lượng điện được đưa vào sử dụng mở đầu thời đại sản xuất hàng loạt. Lần thứ ba bắt đầu vào khoảng cuối thập kỷ 1960, thế giới bước vào cuộc cách mạng tự động hóa cùng với sự phát triển của máy tính.

Cụm từ “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” ra đời từ một dự án quốc gia của nước Đức nhằm xúc tiến máy tính hóa, số hóa sản xuất trong các ngành công nghiệp vào những năm đầu thập kỷ 2010, nằm trong chiến lược tổng thể phát triển công nghệ cao của quốc gia hướng tới đáp ứng nhu cầu, giải quyết thách thức và tạo thế cạnh tranh một cách bền vững cho quốc gia, doanh nghiệp, công dân Đức trong tương lai xa. Từ những tiền đề ban đầu, các nhóm làm việc được lập ra tập trung vào các chủ đề khác nhau như Nhà máy Thông minh, Môi trường, Con người – Công việc, Yếu tố công nghệ. Chương trình này làm dấy nên phong trào các nước từ cường quốc đến các nước đang phát triển khởi xướng các chương trình chiến lược quốc gia tương tự như “Industry 4.0” phù hợp với đặc thù quốc gia mình.

Điểm chung ở các quốc gia này là giới lãnh đạo nhìn thấy một cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiềm ẩn đang và sẽ thay đổi hoàn toàn thế giới, xã hội, con người, doanh nghiệp trong tương lai không xa, mà nếu không chuẩn bị ngay sẽ có thể lỡ mất cơ hội để tồn tại, vươn lên hay duy trì vị trí trên bản đồ kinh tế – chính trị toàn cầu, hay đáp ứng các nhu cầu hay giải quyết các vấn đề trong tương lai ngay chính tại quốc gia đó.

Có ý kiến cho là đây chỉ là sự kéo dài của Cách mạng số hay Cách mạng công nghiệp lần thứ ba, nhưng theo ông Klaus Schwab – Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế giới thì chính tốc độ, phạm vi và tác động mang tính hệ thống của một cuộc cách mạng công nghiệp mới đang làm thay đổi cả chính cá nhân, xã hội, chính trị, kinh tế, doanh nghiệp trong hiện tai và tương lai. Những xu hướng, thành quả, ứng dụng công nghệ số cũng như công nghệ cao khác đã phá vỡ ranh giới giữa thế giới vật lý, thế giới ảo và thế giới sinh học.

Bao trùm lên tất cả là sự thay đổi của các doanh nghiệp qua một thời kỳ mới – thời kỳ của Business 4.0.

Business 4.0 đã làm thay đổi toàn bộ nền kinh tế, nhiều mô hình kinh doanh mới ra đời với sự sáng tạo mang tính hủy diệt (Disruptive Innovation). Nó thay đổi hoàn toàn cách thức doanh nghiệp tương tác với khách hàng, từ phân tích nhu cầu, tiếp thị, bán hàng, đến chăm sóc khách hàng. Nó cũng thay đổi cách thức chúng ta quản trị doanh nghiệp và làm việc hằng ngày.

Doanh nghiệp Việt Nam đang ở đâu trong xu hướng Business 4.0 trên toàn cầu? Các lãnh đạo Việt Nam đã thay đổi tư duy để đón nhận sự thay đổi hay chưa? Làm sao để hiểu xu hướng phát triển thế giới? Những giải pháp nào giúp doanh nghiệp có thể áp dụng ngay để thay đổi doanh nghiệp, từ tiếp thị, bán hàng đến số hóa quản trị doanh nghiệp?…

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Industry 4.0 doanhnhansaigon
(Nguồn: Bài trình bày về Marketing 4.0 của Giáo sư Peter Fisk)

Theo ông Phan Thanh Sơn – chuyên gia tư vấn cao cấp, nguyên Tổng giám đốc CISCO Vietnam: “Industry 4.0 được nói đến như cuộc cách mạng số diễn ra rộng lớn trong các ngành công nghiệp sản xuất. Tuy nhiên những yếu tố tạo ra Industry 4.0 đã, đang và sẽ tạo ra những thay đổi lớn mang tính cách mạng trong các mặt quan hệ, quy trình của nền kinh tế như tài chính, kinh doanh, thương mại, hệ sinh thái, chuỗi cung ứng, cung – cầu…

Ngành ngân hàng đã đề cập đến Banking 4.0, marketing đã đưa ra khái niệm Marketing 4.0, và một số nhà nghiên cứu kinh tế, doanh nghiệp tiên phong, tổ chức đã đưa ra khái niệm Business 4.0 – có mối liên hệ hai chiều chặt chẽ với Industry 4.0. Ngay chính chủ đề “Industry 4.0” được nói đến trong Diễn đàn WEF tại Davos cũng là một khái niệm mở rộng so với ý nghĩa ban đầu của “Industry 4.0”. Nhiều nước xuất phát điểm từ nước nghèo đã chớp được cơ hội để phát triển thành cường quốc kinh tế, nhiều doanh nghiệp ở các quốc gia này đã trở thành các tập đoàn hàng đầu thế giới trong các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, hai và ba.

Nếu nhìn lại lịch sử thì cứ khoảng 100 năm lại có một loạt sự soái ngôi của doanh nghiệp và quốc gia trên bản đồ kinh tế thế giới. Trong bức tranh kinh tế toàn cầu phát triển theo các quy luật mới, cơ hội và thách thức cho danh nghiệp ở Việt Nam là bình đẳng với các doanh nghiệp ở các quốc gia khác, kể cả ở các cường quốc. Nếu hình dung được thế giới, xu hướng của tương lai, của Industry 4.0, Business 4.0 và xây dựng tầm nhìn, chiến lược dài hạn ngay từ bây giờ thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội thành công trong cuộc chơi của một nền kinh tế mới, nền kinh tế của Business 4.0 với các quy luật, thách thức và cơ hội hoàn toàn khác với những gì chúng ta có thể tưởng tượng được”.

Vietnam Business 4.0 Roadshow là một dự án cộng đồng ra đời với sứ mệnh nâng cao năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, bắt đầu bằng chuỗi sự kiện chia sẻ với các lãnh đạo (chủ tịch, tổng giám đốc) về xu hướng Business 4.0 và những mô hình điều hành doanh nghiệp mới dựa trên nền tảng công nghệ có thể áp dụng ngay vào doanh nghiệp Việt Nam

Ông Trần Ngọc Anh – Chủ tịch ANHGROUP, Trưởng BTC chia sẻ: “Vietnam Business 4.0 Roadshow sẽ đi đến các tỉnh thành trong cả nước và bắt đầu từ các thành phố lớn, chúng tôi mong muốn có nhiều doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững và mạnh mẽ để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam. Chúng tôi cùng các đối tác đồng hành cùng nhau hỗ trợ các chủ doanh nghiệp thay đổi tư duy, hiểu sự thay đổi trong kinh doanh trên toàn cầu; cung cấp cho doanh nghiệp những giải pháp quản lý và giải pháp sales/marketing mới dựa trên nền tảng công nghệ để doanh nghiệp tối ưu hóa hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, các doanh nghiệp sau khi tham dự chuỗi chương trình có thể mang các giải pháp về áp dụng ngay mà không phải tốn tiền đầu tư”.

10 công ty thống trị thị trường thực phẩm, đồ uống toàn cầu

Theo tờ Business Insider, chỉ có 10 công ty kiểm soát hầu như mọi thương hiệu thực phẩm và đồ uống lớn trên thế giới.

Mỗi công ty trong số này, bao gồm Nestlé, PepsiCo, Coca-Cola, Unilever, Danone, General Mills, Kellogg’s, Mars, Associated British Foods và Mondelez, sử dụng hàng ngàn lao động và thu về hàng tỷ đô la doanh thu mỗi năm.

Trong một nỗ lực thúc đẩy các công ty để thực hiện thay đổi tích cực – và để khách hàng để nhận ra ai là người kiểm soát những thương hiệu mà họ đang mua – Oxfam đã tạo ra một bản infographic cho thấy các nhãn hiệu tiêu dùng có liên quan chặt chẽ với nhau ra sao.

Dưới đây là một số thông tin về các công ty sở hữu những thương hiệu và sản phẩm mà chúng ta sử dụng mỗi ngày:

Kellogg’s

Doanh thu năm 2015: 13,5 tỷ USD.

Hãy quên đi Froot Loops và Frosted Flakes – Kellogg’s còn sở hữu các thương hiệu không phải là ngũ cốc như Eggo, Pringles và Cheez-It.

Associated British Foods

Doanh thu năm 2015: 16,6 tỷ USD.

Công ty Anh này sở hữu các thương hiệu như Dorset Cereals và trà Twinings, cũng như nhà bán lẻ Primark.

General Mills

Doanh thu năm 2015: 17,6 tỷ USD.

General Mills được biết đến với các sản phẩm ngũ cốc như Cheerios và Chex, đồng thời cũng sở hữu các thương hiệu như Yoplait, Hamburger Helper, Haagen-Dazs và Betty Crocker.

Danone

Doanh thu năm 2015: 24,9 tỷ USD.

Nổi tiếng với các loại sữa chua như Activa, Yocrunch và Oikos, Danone còn kinh doanh các sản phẩm dinh dưỡng y tế và nước đóng chai.

Mondelez

Doanh thu năm 2015: 29,6 tỷ USD.

Những thương hiệu của nhãn hàng chủ yếu sản xuất đồ ăn vặt này bao gồm Oreo, kẹo cao su Trident và Sour Patch Kids.

Mars

Doanh thu năm 2015: 33 tỷ USD.

Mars nổi tiếng nhất với các thương hiệu chocolate của mình, chẳng hạn như M&M, nhưng hãng cũng sở hữu Uncle Ben’s, Starburst, và kẹo cao su Orbit.

Coca-Cola

Doanh thu năm 2015: 44,3 tỷ USD.

Coca-Cola đang di chuyển ra ngoài thị trường nước giải khát có ga với các nhãn hiệu nước giải khát như Dasani, Fuze và trà Honest Tea.

Unilever

Doanh thu năm 2015: 59,1 tỷ USD.

Danh sách phong phú các thương hiệu của Unilever bao gồm thuốc xịt ngăn mùi Axe, trà Lipton, kem Magnum và mayonnaise Magnum.

PepsiCo

Doanh thu năm 2015: 63 tỷ USD.

Ngoài Pepsi và các loại nước giải khát có ga khác, PepsiCo còn sở hữu các thương hiệu như Quaker Oatmeal, Cheetos và Tropicana.

Nestlé

Doanh thu năm 2015: 87 tỷ USD.

Những thương hiệu có thể bạn không biết là do Nestlé sở hữu bao gồm thức ăn cho bé Gerber, Perrier, DiGiorno và Hot Pockets – ngoài ra là các nhãn hiệu kẹo như Butterfinger hay KitKat.