Category Archives: News

9 kiểu người khó thăng tiến trong sự nghiệp

Những người ba phải, chuyện gì cũng xin lỗi hay thích đổ cho hoàn cảnh sẽ khó thăng tiến trong sự nghiệp.

1. Người hèn nhát

Nỗi sợ có tác động vô cùng mạnh mẽ. Ở nơi làm việc, những người bị nỗi sợ lấn át thường có những hành vi thiếu sáng suốt và gây hại cho người khác.

Những đồng nghiệp hèn nhát rất hay đổ lỗi cho người khác, lấp liếm mọi khuyết điểm và không dám đấu tranh vì lẽ phải.

2. Người bi quan

Đây là kiểu người luôn tiêu cực, và có khả năng khiến những người xung quanh cũng cảm thấy tồi tệ theo bằng cách áp đặt suy nghĩ bi quan của mình lên bất cứ ai họ gặp.

Họ luôn chỉ nhìn vào mặt xấu của vấn đề và tìm ra điều gì đó để lo sợ ngay cả trong những tình huống bình thường nhất.

3. Người kiêu ngạo

Những kẻ kiêu ngạo thường chẳng bao giờ công nhận cố gắng của người khác. Tính kiêu ngạo có thể xem là một phiên bản lỗi của tự tin, dùng để che đậy sự bất an bên trong.

Một nghiên cứu của Đại học Akron chỉ ra rằng kiêu ngạo dẫn đến một loạt các vấn đề ở nơi làm việc. Những người này thường có chất lượng công việc kém, luôn phản đối ý kiến của người khác và có vấn đề về nhận thức.

4. Người ba phải

Họ luôn chọn cách ít bị phản đối nhất và chẳng bao giờ có tư tưởng thay đổi. Nếu bạn cảm thấy mình đang dần bị tẩy não theo những gì mà số đông tin tưởng, hãy cẩn thận bởi điều đó chẳng bao giờ mang lại thành công.

5. Người thiệt thòi

Đây là những người luôn lấy lý do thiếu cơ hội cho mọi thất bại của mình. May mắn đúng là một yếu tố quan trọng, nhưng không làm việc chăm chỉ thì sẽ chẳng bao giờ thành công nổi.

Những người này lại không nhận ra rằng chính thái độ của họ mới khiến họ trở nên thiệt thòi, chứ không phải do hoàn cảnh.

6. Người tính khí thất thường

Có những người hoàn toàn không thể kiểm soát được cảm xúc của mình. Họ sẽ liên tục đả kích và chĩa mũi dùi về phía bạn, cho rằng bạn chính là nguyên nhân khiến tâm trạng họ trở nên tồi tệ.

Những người này thường làm việc kém hiệu quả bởi họ hay làm hỏng các mối quan hệ và quyết định luôn bị cảm xúc chi phối. Hãy cảnh giác với người tính khí thất thường, bởi họ sẽ đem bạn ra làm đối tượng để xả những bức bối trong lòng.

7. Nạn nhân

Đây là kiểu người rất khó nhận ra, bởi ban đầu bạn sẽ dễ cảm thông cho vấn đề mà họ gặp phải. Nhưng thời gian qua đi, bạn nhận ra rằng họ là những người lúc nào cũng gặp khó khăn.

Những nạn nhân này luôn tìm cách thoái thác trách nhiệm bằng việc biến mọi thử thách thành những nhiệm vụ bất khả thi. Họ xem khó khăn là dấu chấm hết, chứ không phải là cơ hội để học hỏi và tiến bộ.

8. Người cam chịu

Những người này thực sự rất đáng thương. Họ chỉ biết đi theo đám đông và làm những gì người khác sai khiến.

Họ không dám thương lượng về lương bổng của mình, không dám từ chối ai và không nghi ngờ bất kỳ điều gì. Bạn sẽ nhận được nhiều sự tôn trọng hơn nếu biết đấu tranh đúng lúc.

9. Người hay xin lỗi

Những người này luôn thiếu tự tin và chỉ biết xin lỗi vì những ý tưởng và hành động của mình. Họ sợ thất bại và tin rằng nói xin lỗi là một giải pháp an toàn.

Sự thật là điều đó lại đang hạ thấp giá trị của họ trong mắt người khác. Bạn cần phải biết cách làm cho ý tưởng của mình trở nên quan trọng. Đừng nghi ngờ suy nghĩ của mình và hãy trình bày nó một cách tự tin.

Giữ chân nhân tài bằng… “giải thoát”

Theo một khảo sát vừa được mạng việc làm JobStreet.com Việt Nam thực hiện trên 5.500 người lao động tại TP. Hồ Chí Minh thì hiện có trên 57% người không thể cân bằng giữa công việc và cuộc sống, trong đó tỷ lệ ở cấp quản lý là 51%, còn ở cấp nhân viên dưới một năm kinh nghiệm là hơn 63%.

Mất cân bằng giữa công việc và cuộc sống là nguyên nhân chính khiến người lao động cảm thấy mệt mỏi với công việc hiện tại, dẫn đến tình trạng căng thẳng tâm lý và giảm năng suất làm việc, tình trạng nhảy việc cũng vì thế mà tăng lên.

Không có thời gian dành cho cuộc sống riêng

Khái niệm “cân bằng cuộc sống và công việc” (work life balance) bao gồm việc cân bằng giữa nghề nghiệp và các khía cạnh của cuộc sống như gia đình, bạn bè hoặc các sở thích cá nhân.

Theo khảo sát nói trên, không ít người lao động không có nhiều thời gian dành riêng cho bản thân và các hoạt động với gia đình, bạn bè. Có đến 11% cho biết họ hầu như phải làm việc từ sáng đến lúc đi ngủ, không có thời gian cho cuộc sống riêng, 29% chỉ có 3 giờ mỗi ngày cho gia đình.

Có đến 34,4% người được khảo sát nói họ phải làm thêm từ 2 đến 5 giờ mỗi ngày. Khi được hỏi về nguyên do phải làm thêm giờ, chỉ có khoảng 20% người lao động cho biết họ tự nguyện để nâng cao trình độ, còn lại là do công việc quá tải (32,7%), để kiếm thêm thu nhập (26%) hoặc làm theo yêu cầu của sếp (20,5%).

Ngoài ra, có đến 43% người lao động cho biết họ vẫn phải làm việc trong các kỳ nghỉ lễ và ngày nghỉ phép. Điều này dẫn đến việc có trên 60% người lao động cảm thấy áp lực nặng nề khi phải làm việc ngoài giờ.

Khá nhiều nhân viên ở công ty truyền thông thường làm việc 10 đến 12 giờ mỗi ngày, có người thậm chí tiếp tục làm việc sau giờ ăn tối cho đến 1-2 giờ khuya.

Một chuyên viên truyền thông chia sẻ: “Tôi hiếm khi từ chối làm thêm giờ, thậm chí tự nguyện làm thêm thứ Bảy, Chủ nhật vì không muốn bị đánh giá thấp về năng lực hoặc để công việc rơi vào tay người khác”.

Trong khi đó, một cô kế toán trưởng là mẹ đơn thân thường phải làm việc đến 9 giờ tối, cậu con trai hiện đang học tiểu học phải theo chân mẹ đến cơ quan và ngồi một chỗ chơi game.

Thực tế, một ngày làm việc kéo dài sẽ giảm hiệu quả làm việc và năng suất công việc một cách đáng kể. Sự cạnh tranh trong nội bộ để được thăng tiến là nguyên nhân gây mất cân bằng trong công việc lẫn cuộc sống, cũng là nguyên nhân khiến nhân viên đó căng thẳng về mặt tâm lý.

Người lao động được yêu cầu lựa chọn giữa công việc và cuộc sống hay chấp nhận làm thêm giờ để “rộng đường” phát triển sự nghiệp cũng như tăng thêm thu nhập. Có đến gần 50% người lao động chấp nhận làm thêm giờ để tăng thu nhập, 24% chọn làm thêm giờ để có cơ hội thăng tiến trong tương lai và 23% cho biết sẽ không làm việc thêm giờ vì cần dành thời gian cho bản thân và gia đình.

Tuy nhiên, một con số đáng lưu ý khi gần 65% người lao động chấp nhận làm ngoài giờ chỉ được công ty trả thêm dưới 1 triệu đồng/tháng. Điều này cho thấy việc làm thêm giờ thật sự chưa giải quyết vấn đề thu nhập cho người lao động.

Cách “giải thoát” cho nhân viên

Trong khi đó, doanh nghiệp hiện vẫn thiếu các chính sách hỗ trợ nhân viên để cân bằng giữa công việc và cuộc sống. Chỉ 12% người lao động cho biết văn hóa của công ty khuyến khích họ cân bằng giữa công việc và cuộc sống, 24% cho rằng công ty có chính sách nhưng chưa thực hiện tốt và có đến 59% nhận định công ty chỉ chú trọng đến kết quả công việc và không có chính sách hỗ trợ nhân viên.

Dù nhiều người lao động chọn việc làm thêm giờ để cải thiện thu nhập, nhưng có gần 47% không được trả lương ngoài giờ kể cả khi họ làm những công việc mà sếp yêu cầu. Có 30% người lao động cho biết công ty luôn trả lương khi yêu cầu làm thêm ngoài giờ, 22% cho biết chỉ được trả lương ngoài giờ khi sếp có yêu cầu hoàn thành công việc.

Cũng trong khảo sát của JobStreet.com Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đang phải đối phó với tỷ lệ nhảy việc rất cao của nhân viên. Người lao động đang không hài lòng với công việc hiện tại và sẵn sàng chuyển việc khi tìm được cơ hội tốt hơn.

Đối phó với tình trạng quá tải công việc là một thách thức mới cho cả chủ lao động và người lao động. Tại các nước phát triển, người lãnh đạo thường đẩy mạnh chính sách cân bằng công việc – cuộc sống nhằm giúp nhân viên làm việc hiệu quả hơn đồng thời hưởng thụ cuộc sống. Chủ lao động không những không khuyến khích làm thêm ngoài giờ mà còn tạo thời gian làm việc linh động nhờ sự hỗ trợ của công nghệ.

Thiết nghĩ, để người lao động an tâm cống hiến hết mình cho công việc, doanh nghiệp cần có những chính sách riêng rẽ dành cho từng đối tượng lao động, đảm bảo những phúc lợi khác khi làm việc ngoài giờ (nghỉ bù, cơ hội thăng tiến, lương ngoài giờ…).

Doanh nghiệp cần quản lý sắp xếp thời gian để nhân viên có thể tham gia vào các khóa tập huấn nhằm mục đích nâng cao sự hiểu biết của họ đồng thời tạo thời gian cho nhân viên nghỉ ngơi sau một thời gian làm việc với cường độ cao. Ngoài ra, mỗi năm doanh nghiệp cần cho phép nhân viên nghỉ phép từ 12-15 ngày có trả lương để họ có thời gian dành cho gia đình và những thú vui cá nhân.

Tại Nhật Bản, Chính phủ đang xem xét buộc nhà tuyển dụng cho người lao động nghỉ phép hưởng lương hằng năm nhằm giảm tình trạng quá tải cũng như giúp họ cân bằng công việc và cuộc sống tốt hơn. Theo quy định hiện tại, những người “cày” liên tục trong ít nhất 6 tháng hoặc 80% số giờ làm việc mỗi năm sẽ được nghỉ phép hưởng lương 10-20 ngày. Nhân viên bán thời gian cũng được hưởng chế độ này nếu làm việc 5 ngày mỗi tuần.

Với mặt bằng thu nhập chung còn thấp so với khu vực và tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam, việc cân bằng giữa quyền lợi doanh nghiệp và người lao động vẫn đang gặp khá nhiều khó khăn. Do đó, các yếu tố “mềm dẻo” như đảm bảo con đường sự nghiệp cũng như sự quan tâm đến đời sống tinh thần cho người lao động sẽ là yếu tố giúp doanh nghiệp thu hút và giữ nhân tài trong thời gian tới, nhằm xây dựng một môi trường làm việc minh bạch, văn minh hơn, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập.

An toàn mạng: Sự thiếu hụt nhân sự trầm trọng

Các cuộc tấn công và xâm nhập dữ liệu mạng là nhiều tổn hại và tốn kém đối với danh tiếng của một công ty. Nhưng hiện không đủ nhân sự để lấp đầy lỗ hổng trong lĩnh vực an toàn mạng.

Các chuyên gia cho rằng sự thiếu hụt nghiêm trọng lực lượng chuyên gia an toàn mạng là đáng báo động. Trong thời gian gần đây, nhiều tổ chức trên thế giới đã trở thành miếng mồi của các loại tội phạm mạng.Tại Mỹ, những tên tuổi lớn như UPS, Goodwill, JP Morgan Chase, Sony và nhiều công ty khác liên tục trở thành nạn nhân. Trong năm 2015, danh sách nạn nhân của hacker bao gồm cả FBI, chuỗi khách sạn của Donald Trump, v.v…

Cái giá phải trả bao gồm cả tiền và danh tiếng của các tổ chức, công ty. Theo một nghiên cứu do Viện Ponemon (một viện nghiên cứu độc lập về bảo vệ dữ liệu và chính sách an toàn thông tin) tiến hành với 350 công ty tại 11 quốc gia, tổn thất trung bình của một lần bị tấn công mạng là 3,8 triệu USD, tăng 23% so với năm 2013.

Không có gì ngạc nhiên khi số liệu của Văn phòng Thống kê Lao động Mỹ cho thấy nhu cầu nhân sự về an toàn mạng sẽ tăng 53% trong hai năm tới. Một cuộc nghiên cứu vừa được công bố trong tuần cuối tháng 7/2016 do Intel Security phối hợp với Trung tâm nghiên cứu quốc tế và chiến lược Mỹ – Center for Strategic and International Studies (CSIS) tiến hành tại tám quốc gia Úc, Pháp, Đức, Nhật, Anh, Mỹ, Israel và Mexico đã chỉ ra tình trạng thiếu hụt nhân sự đang rất phổ biến của ngành an ninh mạng.

Có đến 82% đối tượng tham gia cuộc khảo sát cho biết đang thiếu nhân sự an toàn mạng tại cơ quan của họ. Cứ 4 đối tượng tham gia khảo sát thì có một đối tượng khẳng định cơ quan của họ từng là nạn nhân của tấn công và đánh cắp dữ liệu mạng do thiếu nhân sự đạt yêu cầu.

Cần những kỹ năng “cứng” để lấp vào lỗ hổng

Điều cốt lõi được rút ra từ cuộc nghiên cứu này là cần thiết phải giải quyết nhu cầu về 3 kỹ năng sau: nhận diện sự xâm nhập, phát triển phần mềm an toàn cao, giảm nhẹ khả năng bị tấn công.

“Những kỹ năng này có nhu cầu lớn hơn các kỹ năng mềm như khả năng hợp tác, quản lý đội ngũ hay truyền thông hiệu quả”, các tác giả của báo cáo viết.

Đào tạo thường xuyên và thực tiễn là cách thích nghi

Không giống với vị trí của các nhà khoa học dữ liệu (data scientist), một vị trí yêu cầu bằng tiến sĩ, báo cáo của CSIS cũng cho biết bằng cấp có thể chỉ là điều kiện tiên quyết tối thiểu đối với các vị trí trong lĩnh vực an toàn mạng. Sự thật thì ít người (chỉ 23% những người được hỏi) tin rằng các chương trình giáo dục có thể hoàn toàn chuẩn bị sẵn sàng cho sinh viên bước vào ngành này.

Cũng theo cuộc khảo sát, Mỹ và Anh là hai nước đầu tư nhiều vào giáo dục an toàn mạng, trong khi Mexico, Pháp và Nhật đầu tư ít nhất. Các tập đoàn và trường đại học Mỹ đang bắt đầu cung cấp các khóa huấn luyện thực tiễn để ứng phó với tình trạng thiếu hụt nhân sự trong lĩnh vực này.

Báo cáo của CSIS ước tính ngành an ninh mạng toàn cầu sẽ phải chi hơn 100 tỉ USD trong vòng 4 đến 5 năm tới. Chính phủ Mỹ và ngành tài chính sẽ đầu tư mạnh tay nhất và phần lớn sự đầu tư là dành cho huấn luyện và tuyển dụng nhân sự giỏi.

Những nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng nhận ra rằng đào tạo thường xuyên là việc cần thiết và cũng giúp giữ chân nhân sự giỏi. Đây cũng là một phần nguyên nhân để nhân sự ngành này quyết định ra đi hay ở vì chi phí để tự đào tạo và lấy bằng thường khá cao nếu họ tự chi trả.

Hiện tại, các công ty đang tự “điền” vào khoảng trống nhân sự này bằng công nghệ và thuê ngoài một số nhiệm vụ, chẳng hạn như đánh giá và giảm nhẹ rủi ro, giám sát hệ thống và quản lý truy cập. Hơn 60% đối tượng tham gia khảo sát cho biết họ đang thuê ngoài ít nhất 1 mảng nào đó trong khối lượng công việc về an toàn mạng.

Theo báo cáo của Tập đoàn Tư vấn toàn cầu KPMG, các công ty tại thị trường mới nổi Đông Nam Á nên bắt đầu ngay việc tăng cường an ninh mạng để tự bảo vệ trước tình hình tội phạm mạng đang gia tăng. Nền kinh tế Đông Nam Á ngày càng có một vai trò lớn hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu và điều này hấp dẫn các cuộc tấn công mạng, đặc biệt là trong tình hình khu vực này vẫn còn trong tình trạng quản trị yếu kém các nguồn dữ liệu nhạy cảm.

“Các thị trường mới nổi dễ bị tấn công vì đầu tư cho an toàn mạng có giới hạn hoặc thấy không cần thiết để đầu tư”, ông Ho Wah Lee, người đứng đầu nhóm thị trường mới nổi – KPMG Indonesia cho biết.

Báo cáo chỉ ra rằng mối hiểm nguy đến từ 4 lĩnh vực: Sự phức tạp của các chuỗi cung ứng, nhu cầu duy trì chi phí thấp để hấp dẫn đầu tư, sự phát triển nhanh của công nghệ mà không sẵn sàng năng lực hay nhận thức về việc huấn luyện những hiểm họa công nghệ và quản trị kém.

Theo một báo cáo của Công ty An toàn mạng FireEye (Mỹ) thì các ngành có nguy cơ bị tấn công mạng cao nhất trong khu vực châu Á là truyền thông, giải trí, du lịch – khách sạn, tài chính và các trang mạng chính phủ.

Thương mại điện tử Việt và cuộc chiến về giá

Nếu không thể chiến thắng nhờ cung cấp các giá trị vượt trội, thì các sàn TMĐT đưa ra quân bài cuối cùng: Giá thành. Để thu hút người dùng và tăng thị phần, những Tiki, Lazada… sẽ cung cấp cho khách hàng mức giá tốt nhất có thể. Cuộc đua “kéo nhau cùng chết” chính thức bắt đầu.

Cuộc đua xuống đáy

Những ngày gần đây, thị trường thương mại điện tử tại Việt Nam lại đón nhận một thông tin không mấy tốt đẹp. Lingo.vn – một sàn thương mại điện tử 2 năm tuổi, bất ngờ đóng cửa ra đi không kèn không trống. Những số liệu của công ty cho thấy, trong vòng 2 năm, sàn thương mại điện tử này đã lỗ tới hơn 150 tỷ đồng.

Một vài những đánh giá tốt về việc giao hàng nhanh, chất lượng ổn không giúp Lingo.vn có thể trụ vững trên thị trường thương mại điện tử vốn khắc nghiệt. Lỗ, lỗ và lỗ là tình hình chung của tất cả các sàn thương mại điện tử đang hoạt động tại Việt Nam hiện này. Kể cả những trang đang đứng đầu thị trường như Tiki hay được nước ngoài đầu tư như Lazada cũng không phải là ngoại lệ.

Nếu năm 2013, quy mô ngành TMĐT Việt Nam là 2,2 tỉ USD thì chỉ sau 2 năm tới năm 2015, con số này đã là 4 tỉ USD. Tốc độ tăng trưởng ấn tượng đó hiện vẫn đang tiếp tục được duy trì trong năm 2016 này.

Sự khó khăn của sàn thương mại điện tử, hoàn toàn đối nghịch với tốc độ tăng trưởng của toàn thị trường thương mại điện tử Việt Nam hiện nay. Nếu năm 2013, quy mô ngành TMĐT Việt Nam là 2,2 tỉ USD thì chỉ sau 2 năm tới năm 2015, con số này đã là 4 tỉ USD. Tốc độ tăng trưởng ấn tượng đó hiện vẫn đang tiếp tục được duy trì trong năm 2016 này.

Nếu là một người dân sống ở các đô thị, chúng ta cũng có thể thấy sự thay đổi rất rõ trong cách tiêu dùng: Thanh toán thẻ thay cho tiền mặt ngày một nhiều, mọi người mua hàng trên Facebook ngày một đông, rồi sự ra đời của những ứng dụng công nghệ cao buộc phải áp dụng TMĐT như Uber, Grab hay các ví điện tử như Momo,…

Tuy nhiên, đi cùng với nó là hàng loạt sự ra đi của những sàn TMĐT như Bé yêu, Deca, và mới nhất là Lingo. Ngay cả các sàn TMĐT đang dẫn đầu thị trường cũng gặp không ít khó khăn. Tại sao trong khi cả thị trường chung đi lên, sàn TMĐT vẫn gặp nhiều khó khăn như vậy?

Câu trả lời đó là chiến lược mang tên “cuộc chiến giá” giữa các sàn TMĐT.

Nếu nhìn vào các trang TMĐT hiện nay, điều chúng ta dễ nhận thấy nhất đó là sự tương đồng ở hầu hết các khâu: Chủng loại hàng hóa, vận chuyển, thanh toán, độ tin cậy,… tất cả đều ngang nhau. Vì không có gì khác biệt, sẽ có rất ít yếu tố để cạnh tranh.

Nếu không thể chiến thắng nhờ cung cấp các giá trị vượt trội, thì các sàn TMĐT đưa ra quân bài cuối cùng: Giá thành. Để thu hút người dùng và tăng thị phần, những Tiki, Lazada… sẽ cung cấp cho khách hàng mức giá tốt nhất có thể. Cuộc đua “kéo nhau cùng chết” chính thức bắt đầu.

Công thức của cuộc chiến này hết sức đơn giản. Bên nào giàu hơn, trường vốn hơn, chi phí sản xuất thấp hơn sẽ chịu lỗ đủ lâu để lôi kéo khách hàng về phía mình và chờ đối thủ kiệt sức mà chết sẽ trở thành người chiến thắng cuối cùng. Người cuối cùng còn sót lại trên thị trường, sẽ thắng lợi vẻ vang và chiếm đóng vị thế độc quyền, đến lúc đó, muốn tăng giá trở lại bao nhiêu chẳng được.

Dù quy mô không lớn, nhưng tốc độ tăng trưởng của ngành TMĐT Việt Nam rất ấn tượng.

Lý thuyết là thế. Nhưng thực tế thì qua vài năm chưa thấy ai dành chiến thắng, chỉ thấy nhiều người chết và những người còn sống thì trong tình trạng… gần chết. Lazada, sàn TMĐT đứng đầu về thị phần tại Việt Nam, sau một thời gian dài đầu tư đã bị bán lại cho Alibaba. Hiệu quả đầu tư của Lazada tại Việt Nam đến nay vẫn còn là một dấu hỏi. Còn Tiki, sau khi được VNG đầu tư 18 triệu USD và đa dạng hóa các sản phẩm của mình, cũng chưa cho thấy bước tiến nào đáng kể.

Câu chuyện đang diễn ra của ngành TMĐT cũng giống với như những gì đã diễn ra ở ngành bán lẻ điện máy Việt Nam. Dù biên lợi nhuận của bán lẻ điện máy vốn đã rất mỏng, nhưng để cạnh tranh với các chuỗi khác, có siêu thị đã phải chấp nhận bán bằng giá nhập, thậm chí bán lỗ để cạnh tranh thị phần.

Kết quả thì đã rõ. Một loạt các chuỗi điện máy yếu thế bị loại khỏi cuộc chơi, còn những ông lớn trong ngành sau thời gian dài lợi nhuận sụt giảm cũng lao đao. Thị trường bán lẻ điện máy không có người thắng cuộc, và những ông lớn thời điểm đó, hiện đang phải lo sợ trước những bước xâm lấn mạnh mẽ từ mô hình mới Điện máy Xanh.

Thực tế trên thế giới cũng cho thấy rằng, rất ít các DN có thể giành chiến thắng thông qua cuộc chiến hạ giá. Nếu có, đó phải là những DN cực lớn trong ngành, có thể giảm giá thành sản xuất xuống mức không tưởng hay mô hình hoạt động rất hiệu quả như Walmart, IKEA hay McDonald’s.

Những người làm kinh doanh TMĐT đều hiểu, chiến thắng bằng việc giảm giá có rủi ro lớn hơn rất nhiều so với chiến thắng bằng việc cung cấp nhưng “giá trị vượt trội”.

Loay hoay tìm đường mới

Những người làm kinh doanh TMĐT đều hiểu, chiến thắng bằng việc giảm giá có rủi ro lớn hơn rất nhiều so với chiến thắng bằng việc cung cấp nhưng “giá trị vượt trội”. Tuy nhiên, câu trả lời làm sao để khác biệt vẫn còn khá nan giải.

Cũng đã có một số sàn TMĐT chọn cho mình hướng đi khác.

Chẳng hạn, Tiki đã từng cung cấp những giá trị vượt trội hơn so với các sàn TMĐT khác. Đó là sách. Mặc dù vậy, việc nhận thêm vốn đầu tư và mở rộng ra ra ngành hàng khác thì sàn TMĐT này sẽ phải “đau đầu” để nghĩ đường đi tiếp.

Hay như Vnexpress shop. Sàn TMĐT mới ra mắt này kết hợp giữa lượng độc giả đông đảo của Vnexpress và nguồn hàng được đánh giá uy tín của FPT để bán điện thoại. Trong khi đó, cuối năm nay, Thế Giới Di Động cũng cho ra trang TMĐT mới với mặt hàng trọng yếu ban đầu, chắc chắn sẽ là hàng công nghệ – thứ tạo nên uy tín của TGDĐ ngày hôm nay.

Thế nhưng, kể cả khi cố cung cấp cho khách hàng những giá trị khác biệt, các sàn TMĐT mới này vẫn phải chú trọng về giá. TGDĐ cho biết họ sẽ bỏ qua những dịch vụ hậu mãi để sản phẩm bán trên sàn TMĐT của mình có giá tốt nhất. Vnexpress cũng vậy, các sản phẩm đều có giá rẻ hơn giá bán tại FPT Shop. Các DN biết rằng, việc giảm giá thấp như vậy chẳng khác gì tự “ăn thịt mình” khi mô hình mới sẽ gây hại trực tiếp cho chính hệ thống cửa hàng bán lẻ đang vận hành, nhưng họ không còn con đường nào khác.

Trường Hải và áp lực ngôi vương

Trên thị trường giao dịch các cổ phiếu chưa niêm yết (OTC) những tháng gần đây, có một cổ phiếu đang tạo sự chú ý đặc biệt cho các nhà đầu tư. Giá giao dịch nhiều phiên của cổ phiếu này đã được đẩy vọt lên đến mức 90.000-100.000 đồng/cổ phiếu nhưng vẫn khan hiếm.

Đó là cổ phiếu THA của Công ty Ôtô Trường Hải. Công ty này dự kiến sẽ chính thức niêm yết trên thị trường chứng khoán trong khoảng từ đây đến năm 2017, có thể sẽ trở thành phiên bản thứ hai của Thế Giới Di Động hay Vinamilk với vai trò dẫn dắt thị trường.

Tuy nhiên, những hoài nghi cũng dần xuất hiện về vị thế của Trường Hải trong tương lai, nhất là khi những áp lực cạnh tranh mới xuất hiện từ 2018 trở đi dành cho công ty này. Câu hỏi đặt ra: Chủ tịch Trần Bá Dương sẽ làm gì để giữ vững được phong độ mà Trường Hải đã dày công vun đắp gần 20 năm qua?

Các chữ T trong quản trị

2014 và 2015 có thể xem là hai năm kinh doanh thuận lợi của Trường Hải với doanh thu và lợi nhuận tăng gần gấp đôi so với các năm trước. Với doanh thu năm 2015 xấp xỉ 2 tỉ USD và là doanh nghiệp nội địa hiếm hoi sở hữu chuỗi giá trị hoàn chỉnh (từ lắp ráp, sản xuất xe đến hệ thống showroom bán hàng và các dịch vụ hậu mãi trên toàn quốc), Trường Hải ghi dấu ấn trong nền công nghiệp xe hơi Việt Nam trước câu chuyện hội nhập toàn cầu.

Ảnh: Ôtô Trường Hải.

Theo báo cáo của Jardine Cycle & Carriage, cổ đông đang nắm giữ 25,1% cổ phần của Trường Hải, thị phần của công ty này tính đến cuối năm 2015 vào khoảng 28%, tăng thêm 4 điểm phần trăm so với năm trước đó. Trong năm nay, tham vọng mà ông Trần Bá Dương đặt ra là bán được 100.000 xe, tăng hơn 20% so với năm trước. Các nhóm xe mà Trường Hải kinh doanh khá đa dạng từ xe tải, xe khách, xe buýt, xe chuyên dùng cho đến xe du lịch. Với sức nóng của thị trường xe hơi thì mục tiêu này nhiều khả năng sẽ đạt được và có thể tạo ra kỷ lục cho một hãng xe nội địa mà tuổi đời chỉ mới 20.

Sự tăng trưởng của công ty này mang đậm dấu ấn của người lãnh đạo. Tốt nghiệp Đại học Bách Khoa TP.HCM vào những năm đầu giải phóng, với hoài bão lớn, kỹ sư trẻ Trần Bá Dương ngay lập tức thể hiện năng lực tại doanh nghiệp cơ khí giao thông Đồng Nai khi dần nắm giữ những vị trí chủ chốt.

Nhận thấy cơ hội lớn sau mở cửa kinh tế, ông Dương đã đi đến quyết định thành lập Công ty Ôtô Trường Hải vào năm 1997 với một xưởng sản xuất nhỏ tại Biên Hòa (Đồng Nai). Mô hình khởi đầu là nhập khẩu xe đã qua sử dụng về tân trang lại để cung cấp cho thị trường, kết hợp với cung cấp các dịch vụ sửa chữa xe. Ngay năm đầu tiên hoạt động, Công ty đã bán được 137 xe các loại. Doanh số bán hàng các năm sau đó tăng khá nhanh.

Nhưng ông Dương sớm nhận ra là con đường này không thể tiến ra biển lớn. Trường Hải sẽ cần phải xây dựng thương hiệu riêng với những mẫu mã và thiết kế độc đáo. Cũng giống nhiều doanh nghiệp Việt vào thời điểm đó, ông đã lựa chọn chiến lược “đứng trên vai những người khổng lồ”.

Năm 2001, ông đã cho thành lập Công ty Sản xuất và Lắp ráp Ôtô Tracimexco – Trường Hải, chuyển đổi từ mô hình bán xe cũ sang kinh doanh sản xuất và lắp ráp dòng xe thương hiệu Kia tải hạng nhẹ, với công nghệ được chuyển giao từ Hàn Quốc. Đây là doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam đầu tư xây dựng nhà máy lắp ráp ôtô tại Biên Hòa 2 với công suất 5.000 xe/năm. Đến tháng 9.2001, sản phẩm đầu tiên của dòng xe tải nhẹ được xuất xưởng mang tên Trường Hải nhanh chóng được thị trường chấp nhận.

Trần Bá Dương

Ông Trần Bá Dương, Chủ tịch Ôtô Trường Hải. Ảnh: thanhnien.com.vn.

Sự ăn nên làm ra của Trường Hải được thừa hưởng từ nguồn lao động giá tốt tại Việt Nam. Vào năm 2003, Trường Hải bắt đầu đầu tư thêm vào Khu Kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam, và xây dựng nên Khu Phức hợp sản xuất và lắp ráp Ôtô Chu Lai – Trường Hải với quy mô lên đến hơn 600 ha.

Và từ các dòng xe tải ban đầu, Trần Bá Dương đẩy mạnh đầu tư vào dây chuyền lắp ráp xe du lịch. Năm 2007 là cột mốc quan trọng khi Trường Hải khánh thành dây chuyền lắp ráp dòng xe du lịch mang thương hiệu Trường Hải-Kia tại Chu Lai với công suất 20.000 xe/năm.

Rõ ràng quá trình phát triển của Trường Hải thể hiện một tư duy rất logic của người lãnh đạo, đó là lấy cái đơn giản làm trước, nỗ lực học hỏi để tiến lên cái khó. Ngành công nghiệp xe hơi của Việt Nam vẫn còn non trẻ, vì thế xe tải, xe buýt là sở trưởng mà doanh nghiệp Việt có thể làm tốt, rồi dần dần tiến lên phát triển các dòng xe du lịch có thiết kế và công nghệ phức tạp hơn.

Cuối năm 2008, Jardine Cycle & Carriage, một trong những nhà kinh doanh xe hơi hàng đầu của Singapore và khu vực Đông Nam Á, đã chi ra 77 triệu USD để mua 20% cổ phần của Trường Hải, đưa tên tuổi của công ty này vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Lần lượt các đối tác nước ngoài tìm đến hợp tác với Trường Hải như Mazda hay Peugeot. Tính riêng trong năm 2015, sản lượng xe du lịch Công ty bán được lên đến hơn 41.000 chiếc, tăng gấp đôi so với năm 2014. Bên cạnh các dòng xe ôtô du lịch, các dòng xe buýt mang thương hiệu THACO từ 25-47 chỗ ngồi cũng dần lấy được vị trí trên thị trường, đặc biệt với phân khúc xe buýt giường nằm, thị phần của Trường Hải chiếm khoảng 75%.

Nhưng không phải mọi con đường đều thuận buồm xuôi gió. Năm 2012, ảnh hưởng của biến động vĩ mô, hàng loạt doanh nghiệp địa ốc phá sản, nền kinh tế tăng trưởng chậm khiến sức mua xe rớt thảm, cộng thêm lãi suất tăng mạnh khiến chi phí hoạt động tăng lên. Kết quả là tình hình kinh doanh của Trường Hải sụt mạnh, thậm chí lợi nhuận sụt giảm đến 2/3.

Bối cảnh khắc nghiệt ấy đã giết chết không ít doanh nghiệp kinh doanh và nhập khẩu ôtô. Trần Bá Dương khi đó đã nhanh chóng chuyển bớt nguồn nhân lực, tập trung phát triển mạnh mảng xe thương mại, xe chuyên dụng vốn có nguồn cầu ổn định hơn. Quyết định này là một trong những nhân tố quan trọng để vực dậy ngay Công ty trong năm kế tiếp với lợi nhuận ròng vượt cột mốc 1.000 tỉ đồng.

Không chỉ đơn thuần là lắp ráp xe, giấc mơ về một chiếc xe được nội địa hóa hoàn toàn là điều mà ông Dương luôn khát khao. Đến đại bản doanh Chu Lai của Trường Hải các ngày gần đây, có thể nhận ra những nhà máy phụ trợ cho ngành ôtô được ông Dương lần lượt cho ra đời, như nhà máy ghế, nhíp xe, ống xả, nhà máy sản xuất khung gầm và thùng xe, gia công các chi tiết cơ khí hay nhận chuyển giao công nghệ chế tạo động cơ từ phía Hyundai. Năm 2012, Trường Hải cũng đã thâu tóm Công ty Soosung (Hàn Quốc) để tiếp nhận công nghệ sản xuất và lắp ráp xe chuyên dụng.

Tỉ lệ nội địa hóa của các dòng xe tại Trường Hải hiện dao động 16-46%, thuộc nhóm cao nhất Việt Nam và nhiều khả năng sẽ đủ điều kiện để hưởng được thuế xuất khẩu 0% khi xuất sang các quốc gia Đông Nam Á khác kể từ năm 2018 trở đi (yêu cầu tỉ lệ nội địa hóa ít nhất phải là 40%).

Quản lý hơn 14.000 nhân viên và hệ thống trải dài trên 3 miền là một điều không hề dễ. “Đối với tôi, lãnh đạo phải là người biết cho những gì nhân viên muốn nhận, nhưng cũng biết sử dụng biện pháp mạnh để đủ sức răn đe khi cần thiết. Cái “được” và cái “sợ” từ cả hai phía phải được xây dựng trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và hoàn toàn không nên tùy hứng theo cảm xúc”, ông Dương chia sẻ trong những lần hiếm hoi xuất hiện trước giới truyền thông.

Nếu như ông Đoàn Hồng Việt của Digiworld quản lý Công ty bằng “3 chữ C”, ông Lê Phước Vũ của Tôn Hoa Sen quản lý nhân viên bằng “10 chữ T”, thì ông Trần Bá Dương cũng có công thức cho riêng mình, đó là nguyên tắc “8 chữ T”: Tận tâm, Trung thực, Trí tuệ, Tự tin, Tôn trọng, Trung tín, Tận tình và Thuận tiện. Bởi ôtô là ngành công nghiệp đòi hỏi chất lượng và sự phát triển bền vững, Trần Bá Dương tâm niệm rằng một nền văn hóa đặc sắc lấy kỷ luật làm trung tâm sẽ tạo nên một đội ngũ nhân sự có ý chí mạnh mẽ với thái độ làm việc tích cực, sáng tạo. Ông Dương cho rằng đây là nền tảng sức mạnh nội tại của Công ty.

Mất chiếc dù bảo vệ

Năm 2018 sẽ là thời khắc quan trọng của ngành ôtô Việt Nam bởi theo Hiệp định Thương mại tự do nội khối ASEAN, thuế nhập khẩu ôtô vào Việt nam sẽ chỉ còn 0%, tức chiếc ô bảo vệ mang tên “hàng rào thuế quan” sẽ không còn tác dụng. Bên cạnh đó, Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) một khi có hiệu lực cũng có thể mang đến những thay đổi căn bản về cấu trúc ngành, nhất là từ các quốc gia có thế mạnh về xe hơi như Nhật và Mỹ.

Ngành công nghiệp ôtô Việt Nam vẫn chưa thể cạnh tranh sòng phẳng với các đối thủ ngoại bởi hạn chế về vấn đề công nghệ. Theo các chuyên gia trong ngành đánh giá, việc nhập khẩu xe nguyên chiếc về Việt Nam từ sau năm 2018 sẽ thấp hơn đáng kể với chi phí lắp ráp trong nước, đặt ra thách thức lớn hơn bao giờ hết cho các doanh nghiệp Việt, thậm chí đã có một số doanh nghiệp ngoại lắp ráp xe ở Việt Nam đã “đánh tiếng” sẽ đóng cửa nhà máy nếu không nhận được các hậu thuẫn về mặt chính sách từ Nhà nước.

Đối thủ lớn nhất cho Việt Nam sẽ là các dòng xe có xuất xứ từ Thái Lan. Công suất các nhà máy lắp ráp ôtô tại Thái Lan hiện lên đến 2,85 triệu chiếc, thậm chí nếu chạy hết công suất thì có thể đạt đến 4 triệu chiếc. Trong bối cảnh sức tiêu thụ của Thái Lan đã bão hòa thì xuất khẩu sẽ là chiến lược được các doanh nghiệp đẩy mạnh. Với con số sản xuất khủng nói trên, có lý do để tin rằng sau năm 2018, các dòng xe “Made in Thailand” sẽ tràn ngập thị trường các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Bởi thế, dù dư địa thị trường vẫn còn rất lớn khi số lượng xe trên đầu người của Việt Nam còn khá thấp so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia (3 xe/100 dân so với 20 xe/100 dân), nhưng nhiều khả năng chiếc bánh này sẽ khó rơi vào tay các doanh nghiệp trong nước. Áp lực cạnh tranh trong ngành thậm chí còn bị tác động bởi những phương tiện giao thông thay thế. Tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM ngày càng mọc lên các loại hình giao thông công cộng hiện đại như metro, các đường sắt đô thị một ray. Những phương tiện này sẽ ảnh hưởng phần nào đến tâm lý sở hữu xe hơi của người tiêu dùng.

Thực tế thì ông Dương đã cảm nhận mối nguy này từ khá lâu và dường như “canh bạc bất động sản” đang là cuộc chơi “hậu kỳ” của ông.

Năm 2011, Trường Hải cùng một số đối tác thành lập Công ty Đại Quang Minh. Tổng vốn điều lệ của công ty này lên đến 2.700 tỉ đồng và tập trung vào các dự án hạ tầng lớn tại Khu Đô thị Thủ Thiêm (quận 2). Bên cạnh đó, Đại Quang Minh cũng được chấp thuận đầu tư các khu đô thị quy mô hàng trăm hecta tại trung tâm tài chính mới của Thành phố. Chỉ trong năm 2015, Đại Quang Minh thu về 6.400 tỉ đồng.

Trường Hải có thể có thể phải tạm gác lại giấc mơ tạo ra một chiếc xe 100% “Made in Vietnam” cho những tính toán thực tế hơn như bất động sản. Ảnh: Ôtô Trường Hải.

Ngoài TP.HCM, Trường Hải còn sở hữu một số dự án quy mô hàng trăm hecta tại Quảng Nam và Đà Nẵng. Đó là chưa tính đến hệ thống 89 showroom nằm tại nhiều vị trí đắc địa trên toàn quốc mà phần lớn quyền sử dụng đất thuộc về Trường Hải. Tính tổng quát, các dự án bất động sản có thể mang lại cho Trường Hải hằng trăm tỉ đồng lợi nhuận mỗi năm, nhưng cũng sẽ mang theo rủi ro nếu thị trường biến động.

Thị trường địa ốc Việt Nam vẫn được xem là còn tốt. Đó cũng là lý do vì sao bên cạnh Trường Hải, nhiều doanh nghiệp xuất thân từ các ngành công nghiệp khác cũng dần xuất hiện trong mảng kinh doanh bất động sản như Tôn Hoa Sen hay Cơ Điện Lạnh REE.

“Xe hơi vẫn là chủ đạo nhưng phát triển thành tập đoàn công nghiệp đa ngành là định hướng của chúng tôi trong lộ trình hội nhập khu vực ASEAN. Thực tế đã chứng minh, phát triển đa ngành là xu hướng tất yếu của các tập đoàn lớn trong khu vực và trên thế giới. Khi ngành nghề cốt lõi đã lớn mạnh, đã có thể làm trụ cột và tích lũy được tài chính, kinh nghiệm thì họ đều vươn tay sang các lĩnh vực khác. Chúng tôi cũng không ngoại lệ”, ông Dương nói.

Nhưng cũng có nhiều câu hỏi được đặt ra khi Trường Hải bắt đầu mở rộng đa ngành. Liệu năng lực quản trị của công ty có thể đáp ứng cho sự “phân thân” vào cả 2 lĩnh vực khó là ôtô và bất động sản, trong khi bất động sản chưa phải là thế mạnh? Ông Dương sẽ đối mặt những áp lực về tài chính khi lấn sân sang lĩnh vực địa ốc ra sao? Và ông đã có những chiến lược dự phòng rủi ro nào khi tham gia vào địa ốc vốn được xem là một ngành nhạy cảm, nhiều rủi ro từ chính sách?

Những câu hỏi này cần thời gian chứng minh. Nhưng trước mắt, đặt trong bối cảnh ngành ôtô gặp nhiều thách thức cạnh tranh, cuộc phiêu lưu mới của Trần Bá Dương có thể cũng là một phép thử.