Tiền từ dân cư và doanh nghiệp đổ về ngân hàng

Dòng tiền từ dân cư và doanh nghiệp đang quay trở lại hệ thống ngân hàng dồi dào sau kỳ nghỉ Tết.

Tuần thứ hai sau kỳ nghỉ Tết dài, tiền đồng quay trở lại hệ thống ngân hàng mạnh khiến thanh khoản của các ngân hàng dồi dào. Nhu cầu vay mượn qua thị trường mở OMO và các kênh liên quan do đó hạ nhiệt rất mạnh.

Cụ thể, thị trường OMO trở về trạng thái trầm lắng khi lượng vốn các ngân hàng vay qua kênh này là không đáng  kể. NHNN tuần qua không có hoạt động bơm mới nào trong khi lượng vốn đáo hạn lên tới 48.285 tỉ đồng. Do đó  tổng khối lượng tiền được hút ròng mạnh qua kênh thị trường mở tuần qua đạt 48.023 tỉ đồng. Đây là mức hút ròng cao nhất trong vòng nhiều tháng qua.

Tiền dồi dào cũng khiến kênh tín phiếu đứng im. Tuần qua là tuần thứ mười một liên tiếp NHNN không có hoạt động phát hành mới, không có hoạt động bơm/hút qua kênh tín phiếu.

Lãi suất liên ngân hàng tiếp tục xu hướng giảm mạnh nhất trong nhiều tháng sau dịp Tết Nguyên Đán. Cụ thể, lãi suất trung bình kỳ hạn qua đêm chỉ còn 1,79%/năm; kỳ hạn một tuần chỉ còn 2,27%/năm; kỳ hạn hai tuần chỉ còn 2,69%/năm, đều giảm hơn 1%/năm so với mức lãi suất của tuần trước đó.

Thanh khoản hệ thống dồi dào khi nguồn tiền từ dân cư và doanh nghiệp đã quay trở lại kênh tiết kiệm trong khi nhu cầu giải ngân vốn tín dụng chưa tăng mạnh trong các tháng đầu năm là nguyên nhân chính giúp  lãi suất liên ngân hàng hạ nhiệt nhanh chóng hai tuần vừa qua.

Chớp lấy thời cơ các ngân hàng thừa tiền, Chính phủ huy động vốn mạnh qua kênh trái phiếu. Kho bạc Nhà nước trong tuần đấu thầu trái phiếu chính phủ tại các kỳ hạn 3 năm, 5 năm và 15 năm với những đợt phát hành thêm có lượng đặt thầu cao. Khối lượng đặt thầu tăng mạnh nhất tại kỳ hạn 5 năm, gấp 3,1 lần tổng giá trị đấu thầu kỳ hạn này với 44.902 tỉ đồng. Trái phiếu tất cả các kỳ hạn đều trúng thầu 100% trong tuần.

Giới kinh doanh tiền tệ nhận định rằng thanh khoản hệ thống ngân hàng dồi dào sau Tết tiếp tục sẽ là yếu tố thuận lợi hỗ trợ cho hoạt động phát hành trái phiếu huy động tiền cho ngân sách trong vài tuần tới. Với lượng đặt thầu kỷ lục như tuần qua, nhiều khả năng các phiên đấu thầu trong tuần tới sẽ tiếp tục sôi nổi với mức lãi suất cho các  loại kỳ hạn có thể tiếp tục giảm nhẹ khoảng 0,1 điểm phần trăm.

Và do đó, lợi suất trái phiếu trên thị trường thứ cấp tuần qua giảm nhẹ tại tất  cả các kỳ hạn. Theo Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt, lợi suất các kỳ hạn 1 năm, 2 năm, 3 năm và 5 năm giảm lần lượt về mức 4,864%; 5,143%; 5,583% và 6,365%/năm. Các kỳ hạn 7 năm, 10 năm và 15 năm cũng đồng loạt giảm lần lượt về mức 6,858%; 7,108% và 7,7%/năm.

 

Các quỹ đầu tư nước ngoài nhắm tới cổ phiếu VN

Các quỹ đầu tư cổ phiếu thị trường cận biên (hay còn gọi là thị trường “tiền mới nổi” – pre-emerging market) đang sẵn sàng mua thêm cổ phiếu ở thị trường chứng khoán Việt Nam vì cổ phiếu Việt Nam đang được định giá rẻ và kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh nhất trong gần một thập kỷ, hãng tin Bloomberg cho biết.

Quỹ Coeli Asset Management (Thụy Điển) và Quỹ Asia Frontier Capital (Hồng Kông) cho biết đang có kế hoạch tăng tỷ trọng cổ phiếu trong năm nay trong bối cảnh đầu tư trực tiếp nước ngoài tại  Việt Nam tăng cao kỷ lục cũng như các hiệp định tự do thương mại giữa Việt Nam với các đối tác bên ngoài hứa hẹn giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Công ty quản lý Quỹ Tundra Fonder (Thụy Điển) cho biết muốn mua cổ phiếu của các công ty hàng tiêu dùng, xây dựng và sản xuất công nghiệp của Việt Nam.

Giá trị cổ phiếu Việt Nam trên giá trị sổ sách đang ở mức 1,68 lần, gần mức thấp nhất trong ba năm sau khi chỉ số VN-Index mấp mé bước vào thị trường giảm giá vào tháng 1-2016 khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ tăng lãi suất và làn sóng bán tháo cổ phiếu xuất hiện ở các thị trường mới nổi.

Bloomberg cho biết chính phủ Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,7% trong năm 2016 và đây là một trong những mức tăng trưởng cao nhất thế giới. Trong bản báo cáo ngày 22-2, Ngân hàng HSBC đánh giá sự hồi phục kinh tế giúp Việt Nam trở thành một điểm sáng hiếm hoi trong bức tranh nền kinh tế toàn cầu.

“Chúng tôi sẽ tiếp tục phân bổ thêm vốn vào thị trường Việt Nam. Chúng tôi thích lĩnh vực hàng tiêu dùng vì nó sẽ được hưởng lợi nhờ mức lương của công nhân tăng khi họ chuyển từ các nhà máy trong nước sang làm việc cho các doanh nghiệp có vốn FDI. Chúng tôi duy trì triển vọng rất tích cực đối với Việt Nam”, James Bannan, một nhà quản lý danh mục ở Quỹ Coeli Asset Management, cho biết.

Ông Andreas Vogelsanger, Giám đốc điều hành của Quỹ AFC Vietnam Fund (thuộc Quỹ Asia Frontier Capital) nhận định các hiệp định thương mại và dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là các lý do quan trọng khiến Việt Nam sẽ tăng trưởng vượt trội so với các thị trường châu Á khác.

Shamoon Tariq, nhà quản lý Quỹ Tundra Fonder ghi nhận rằng sức chi tiêu của người tiêu dùng và các cải cách cấu trúc sẽ tạo ra bước ngoặt cho  kinh tế Việt Nam.

 

Báo chí và chuyện Dung Quất dọa đóng cửa

Đầu tuần này, không hẹn mà nên hàng loạt báo chạy tít, đại loại nhà máy lọc dầu Dung Quất đang đứng trước nguy cơ phải đóng cửa gây bất ngờ ở nhiều người đọc.

cong_nhan_van_hanh_dan_khoan

Công nhân vận hành xuất sản phẩm tại Cảng xuất sản phẩm NMLD Dung Quất.

Một khi Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) có văn bản gửi Bộ Tài Chính, Bộ Công Thương, Văn phòng Chính phủ về việc tồn kho lớn của Nhà máy lọc dầu Dung Quất rồi cảnh báo nguy cơ “bắt buộc phải giảm công suất hoặc tạm dừng nhà máy trong thời gian tới” thì các báo đưa tin là chuyện đương nhiên.

Tuy nhiên chọn lựa góc độ nào để đưa lại là trách nhiệm của báo chí. Với một người quan sát khách quan, nguy cơ Nhà máy lọc dầu Dung Quất phải đóng cửa không phải là tin bởi nhiều lý do. Chuyện “dọa” đóng cửa như thế đã từng diễn ra vào năm ngoái. Quan trọng hơn, một nhà máy nếu vận hành lỗ một thì đóng cửa sẽ lỗ mười và chắc chắn các cơ quan hữu quan sẽ không để một nhà máy lọc dầu đóng cửa chỉ vì chính sách thuế.

Vậy yếu tố tin ở đây là gì?

Đó là từ đầu năm 2016 thuế nhập khẩu xăng từ các nước trong khu vực ASEAN giảm từ 20% về 10%  và thuế nhập khẩu diesel giảm về 0% theo lộ trình đã định sẵn. Ngoài ra, thuế nhập khẩu với sản phẩm xăng từ Hàn Quốc cũng được đưa về mức 10% theo biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc.

Trong khi đó, theo một cơ chế rất đặc thù, sản phẩm xăng dầu Nhà máy lọc dầu Dung Quất bán ra thị trường nội địa phải nộp điều tiết dựa trên thuế suất thuế nhập khẩu chung và mức thuế họ đang chịu là 20%.

Thử hỏi nếu là khách hàng mua xăng dầu, chúng ta sẽ mua từ đâu, từ các nước ASEAN hay Hàn Quốc để chỉ chịu mức thuế 10% (và 0% nếu mua diesel) hay mua từ Dung Quất và phải chịu mức thuế 20% (và 10% nếu mua diesel)? Đó chính là lý do vì sao các khách hàng lớn của Dung Quất tiếp tục giảm mạnh khối lượng mua hàng của Dung Quất; ví dụ như Petrolimex chỉ đăng ký mua 80.000 mét khối diesel/tháng, bằng 2/3 so với khối lượng 120.000 m3/tháng mà họ thường mua trước đây.

Năm ngoái cũng từng xảy ra hiện tượng tương tự khi thuế nhập khẩu xăng được giảm từ 35% xuống còn 20%; thuế nhập khẩu dầu diesel ở mức 30% được giảm xuống còn 5% cho năm 2015 và sau đó giảm về 0% cho năm 2016 đến năm 2018. Lúc đó Dung Quất kêu cứu, cũng “dọa” đóng cửa nhà máy và sau đó Bộ Tài chính phải điều chỉnh để mức thuế Dung Quất chịu cũng ngang bằng mức thuế xăng nhập từ Singapore.

Năm nay, trước thông tin Nhà máy lọc dầu Dung Quất có nguy cơ đóng cửa lẽ ra báo chí nên đưa thành tin: Dung Quất hay đúng hơn Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đang gây sức ép để được giảm mức thuế điều tiết bằng thuế nhập khẩu từ các nước ASEAN hay Hàn Quốc.

Đó là chưa kể khi thuế suất nhập khẩu về 0% thì Tập đoàn Dầu khí Việt Nam phải bù 7% cho Dung Quất và phải gánh khoản lỗ này. Đây là câu chuyện phức tạp hơn (xin đọc lại ở đây).

Có lẽ rồi Bộ Tài chính cũng sẽ điều chỉnh mức thuế cho Dung Quất thôi nhưng đã đến lúc phải xem lại toàn bộ cơ chế tài chính cho nhà máy lọc dầu này. Bởi không lẽ năm nào báo chí cũng sẽ đăng tin Dung Quất có nguy cơ đóng cửa?

 

Doanh nghiệp với mối lo phí bảo hiểm xã hội

Điều 89.2 của luật này quy định từ ngày 1-1-2016 đến ngày 31-12-2017, tiền lương tháng đóng BHXH bao gồm: (1) mức lương; và (2) phụ cấp lương theo quy định của pháp luật lao động được ghi trong hợp đồng lao động (HĐLĐ). Như vậy, mỗi tháng doanh nghiệp phải chi thêm 18% các khoản phụ cấp lương để đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ.

Doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, tất nhiên không muốn gánh thêm chi phí này, nhưng cũng không thể cắt giảm toàn bộ phụ cấp lương đã trả cho NLĐ như trước đây. Theo điều 23.1 và điều 35 của Bộ luật Lao động, doanh nghiệp phải thỏa thuận với NLĐ để sửa đổi, bổ sung HĐLĐ trước khi cắt giảm phụ cấp lương và lẽ thường, không NLĐ nào lại đồng ý với doanh nghiệp trong trường hợp này.

Còn về mặt quản lý nhân sự, nếu không đảm bảo thu nhập của NLĐ tăng lên theo thời gian mà chỉ tìm cách cắt giảm các khoản khác ngoài tiền lương, doanh nghiệp sẽ đứng trước nguy cơ không giữ được NLĐ lâu dài. Tình trạng mất NLĐ với số lượng lớn và thường xuyên trong các doanh nghiệp sản xuất sẽ gây ra khó khăn không nhỏ cho doanh nghiệp trong việc vận hành nhà máy và đảm bảo tiến độ, chất lượng đơn hàng.
Để giảm thiểu phần nào khoản chi phí BHXH phát sinh nhưng vẫn phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, trên thực tế nhiều doanh nghiệp đang vận dụng một trong các cách làm sau:

Chuyển các khoản phụ cấp lương hiện tại thành tiền thưởng

Doanh nghiệp sẽ thỏa thuận với NLĐ để sửa đổi, bổ sung HĐLĐ theo hướng định danh lại các khoản phụ cấp lương thành tiền thưởng vì tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc không bao gồm tiền thưởng theo quy định tại điều 103 của Bộ luật Lao động(1), (lưu ý là các khoản khác như tiền ăn giữa ca, khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại… chỉ chiếm một phần nhỏ trong phần chung “các khoản bổ sung khác mang tính chất chế độ và phúc lợi khác”). NLĐ sẽ dễ dàng đồng ý với đề xuất này bởi thu nhập của NLĐ từ tiền lương vẫn không thay đổi trong khi NLĐ cũng không bị khấu trừ thêm 8% phụ cấp lương để đóng BHXH (trong trường hợp NLĐ được trả lương trước thuế).

Xét câu chữ thì rõ ràng khoản tiền thưởng không phải là phụ cấp lương theo tinh thần của điều 4 Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH và sẽ không được gộp vào tiền lương để làm cơ sở tính tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ, nhưng bản chất của khoản tiền thưởng mới được gọi tên này dường như chưa đúng cả ở quy định pháp luật lẫn nghĩa thông thường.

Cơ bản thì bản chất của tiền thưởng là một khoản thu nhập bổ sung mang tính khuyến khích NLĐ để họ nhiệt tình, có thêm những đóng góp có ích cho doanh nghiệp và NLĐ được nhận tiền thưởng như vậy phải đáp ứng các điều kiện để xứng đáng nhận tiền thưởng hơn những NLĐ khác. Điều 103 của Bộ luật Lao động cũng đã quy định tiền thưởng là khoản tiền mà người sử dụng lao động thưởng cho NLĐ căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh hàng năm và mức độ hoàn thành công việc của NLĐ.

Sẽ là khập khiễng khi xác định ngay từ cuối năm Dương lịch này tất cả NLĐ đều sẽ nhận được hàng tháng khoản tiền thưởng cố định trong suốt năm làm việc tiếp theo dù bản thân doanh nghiệp cũng chưa biết kết quả hoạt động kinh doanh của mình ra sao trong tương lai. Và càng khiên cưỡng hơn nữa khi nhiều doanh nghiệp cơ cấu tiền lương thấp hơn tiền thưởng hàng tháng. Dù vậy, ở phía ngược lại, doanh nghiệp vẫn có thể lập luận rằng tiền thưởng này đã căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và mức độ hoàn thành công việc của NLĐ trong năm vừa qua, nhưng thay vì trả một lần vào cuối năm thì doanh nghiệp chia đều để định kỳ trả khoản tiền thưởng này trong suốt năm làm việc sắp tới của NLĐ.

Cách làm này rất phổ biến nhưng trong quá trình triển khai, nhiều doanh nghiệp quên rằng theo Bộ luật Lao động, quy chế thưởng phải được công bố tại nơi làm việc sau khi tham khảo ý kiến của Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở, phải cụ thể hóa điều kiện được hưởng và mức được hưởng tại một trong các hồ sơ như HĐLĐ hay thoả ước lao động tập thể. Do vậy, nếu chưa thực hiện đầy đủ những việc này, doanh nghiệp vẫn có thể bị xem là chưa tuân thủ quy định và không được chấp nhận loại khoản tiền thưởng định kỳ hàng tháng ra khỏi cách xác định tiền lương tháng dùng làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ. Ngoài ra, khoản tiền thưởng đã trả còn có thể không được ghi nhận là chi phí được trừ theo các quy định thuế thu nhập doanh nghiệp.

Ghi giảm mức lương theo HĐLĐ và trả tiền lương làm thêm giờ bù đắp

Một số doanh nghiệp, phần lớn là doanh nghiệp sản xuất, gia công đang vận dụng điều 21 của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP và điều 3.2 của Thông tư số 23/2015/TT-BLĐTBXH để chia nhỏ tiền lương của NLĐ bao gồm tiền lương làm thêm giờ. Theo đó, tiền lương ghi trong HĐLĐ do doanh nghiệp thỏa thuận với NLĐ sẽ bao gồm mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác, nhưng mức lương không bao gồm khoản tiền trả thêm khi NLĐ làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm. Doanh nghiệp sẽ giải thích và thuyết phục NLĐ ký kết phụ lục sửa đổi, bổ sung HĐLĐ hoặc HĐLĐ mới ghi nhận mức lương NLĐ nhận theo HĐLĐ sẽ thấp hơn mức lương trước đây nhưng không thấp hơn lương tối thiểu vùng, và ngầm hiểu với nhau rằng phần chênh lệch sẽ vẫn được doanh nghiệp trả đủ cho NLĐ dưới một tên gọi khác là tiền lương làm thêm giờ. Như vậy, doanh nghiệp chỉ phải đóng BHXH bắt buộc hàng tháng cho NLĐ theo mức lương bằng hoặc cao hơn chút ít so với lương tối thiểu vùng, chứ không phải đóng trên toàn bộ tiền lương của NLĐ.

Chưa rõ, cơ quan BHXH sẽ có ý kiến như thế nào về việc tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ có bao gồm tiền lương làm thêm giờ hay không, nhưng trước mắt, cách làm này của doanh nghiệp sẽ gặp những khó khăn nhất định trong việc cấu trúc lại hệ thống tính toán tiền lương và các công việc hành chính kéo theo.

Do (số) tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương, tiền công làm việc ban ngày, làm việc trong giờ sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân(2) nên NLĐ sẽ được lợi hơn so với việc phải đóng thuế thu nhập cá nhân trên toàn bộ tiền lương theo HĐLĐ như trước. Tuy nhiên, nếu có tranh chấp với doanh nghiệp sau này, NLĐ sẽ gặp khó khăn trong việc chứng minh tiền lương thực tế của họ.

Về phía doanh nghiệp, nếu áp dụng cách này, sẽ rất vất vả cho các phòng ban nội bộ khi phải xem xét hệ thống chứng từ kế toán nội bộ, cơ cấu lại hệ thống tiền lương và chi trả lương, tiền lương làm thêm giờ cho NLĐ trong toàn bộ doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp sử dụng hàng ngàn lao động sản xuất. Bởi lẽ, doanh nghiệp phải lập bảng kê phản ánh rõ thời gian làm đêm, làm thêm giờ, khoản tiền lương trả thêm do làm đêm, làm thêm giờ đã trả cho NLĐ và phải xuất trình khi cơ quan thuế yêu cầu.

Hơn nữa, với việc tháng nào NLĐ cũng phải làm thêm giờ theo cách này, doanh nghiệp có thể rơi vào trường hợp sử dụng NLĐ làm thêm quá 200 giờ trong một năm hoặc quá 300 giờ trong một năm trong các trường hợp đặc biệt được Chính phủ quy định, tức là đã vi phạm điều 106.2 của Bộ luật Lao động và có thể bị xử phạt lên đến 100 triệu đồng(3).

Nghiêm trọng nhất là việc tách tiền lương làm thêm giờ để giảm số thuế thu nhập cá nhân cho NLĐ có thể bị xem là hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Hậu quả doanh nghiệp phải gánh chịu có khi lớn hơn nhiều lần so với số tiền doanh nghiệp đã không đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ từ việc áp dụng cách làm này.

Kết hợp cả hai cách trên

Để khắc phục những rủi ro pháp lý và sự phức tạp của công tác tiền lương, kế toán trong cách làm thứ hai, nhiều doanh nghiệp đã linh hoạt áp dụng kết hợp hai cách làm trên đây. Sự mềm dẻo này phần nào giúp doanh nghiệp khắc phục được khả năng NLĐ có thể làm quá số giờ làm thêm tối đa theo quy định, không áp dụng đối với bộ phận NLĐ làm văn phòng, đồng thời xem ra cũng có vẻ hợp lý hơn khi xen kẽ tháng trước NLĐ làm thêm giờ, tháng sau NLĐ được thưởng vì đã có thành tích tốt trong tháng trước. Dù vậy, doanh nghiệp chắc chắn không thể né tránh được một thực tế là phải có hệ thống tính toán tiền lương, nhân sự, kế toán rất tốt với đầy đủ các hồ sơ pháp lý, chứng từ chứng minh tính hợp pháp và hợp lý của cách làm mà doanh nghiệp đang thực hiện.

Tuy nhiên, dù đang làm cách nào, tâm lý chung của doanh nghiệp là “vừa làm, vừa lo”.

 

Tồn tại cái đã!

Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp của tập đoàn Dầu khí hiện nay là trụ lại, làm sao vượt qua thử thách giá dầu thấp và có thể còn đứng ở mức thấp trước mặt. Ảnh TL

Ba trong số các giàn khoan chủ lực của Tổng công ty Khoan và Dịch vụ khoan dầu khí (PVD-Hose) đang nằm bất động ngoài khơi do không có đối tác nào thuê bất chấp giá thuê giàn đã giảm từ khoảng 140.000 đô la Mỹ/ngày xuống còn một nửa. Tổng công ty Thăm dò và Khai thác dầu khí đang chuẩn bị phương án đóng cửa một số mỏ. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp của tập đoàn Dầu khí hiện nay là trụ lại, làm sao vượt qua thử thách giá dầu thấp và có thể còn đứng ở mức thấp trước mặt.

Bốn năm trước, trong một cuộc hội thảo về mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp bất động sản, khẩu hiệu đưa ra bấy giờ là các công ty kinh doanh địa ốc làm sao tồn tại được đã. Phải ba năm sau, sau khi nhiều đơn vị bất động sản đóng cửa, những công ty còn lại mới thở phào “tồn tại được rồi!”. Giờ đây, các doanh nghiệp dầu khí nhắc lại điệp khúc đó “tồn tại cái đã!”.

Tính đến thứ Ba tuần này cổ phiếu của Tổng công ty Khí (GAS-Hose) đã tăng 10% và tăng khoảng 40% so với mức đáy thiết lập hồi cuối tháng 1-2016. Giới đầu tư cho rằng thị giá cổ phiếu GAS đã quá rẻ để mua vào, đồng thời khí khác với dầu thô, giá khí không giảm nhiều như giá dầu và GAS có thể tham gia quyết định giá sản phẩm đầu ra bán cho các đơn vị tiêu thụ như sản xuất điện, phân đạm… Nói cách khác, lợi nhuận của GAS năm nay sẽ giảm, nhưng không phải giảm mạnh như các công ty khai thác hoặc cung cấp dịch vụ dầu khí.

Đâu có đơn giản như vậy. Khi liên doanh Vietsovpetro hay Tổng công ty Thăm dò và Khai thác dầu khí, hoặc các doanh nghiệp nước ngoài khác bắt buộc phải đóng những mỏ có giá thành khai thác cao, thì họ đâu có khí để bán cho GAS? Đóng mỏ dầu đồng nghĩa đóng luôn nguồn khí. GAS mà không có đầu vào, lấy đâu đầu ra? Và dĩ nhiên lấy đâu doanh thu, lợi nhuận?

Vì sao bây giờ các doanh nghiệp dầu khí mới hé mở hiện trạng khó khăn họ đang phải đối mặt? Thứ nhất vì giá dầu thấp đến giờ đã ngấm vào “xương cốt” của doanh nghiệp và câu hỏi đặt ra không phải là lỗ bao nhiêu nữa mà là sức chịu đựng lỗ đến được mức nào? Đóng mỏ có nghĩa là ngành dầu khí “ngồi chơi xơi nước”, người lao động thất nghiệp, ngân sách mất nguồn thu. Nhưng liệu có doanh nghiệp nào dám bỏ những đồng tiền còn lại vào cái thùng chưa biết đâu là đáy trong khi dòng tiền về đang vô cùng eo hẹp, nếu không nói bằng không?

Thứ hai muốn tồn tại được, hiện tại ngành dầu khí cần tiền, giống như nguồn tài trợ lúc “đói”. Con không khóc làm sao mẹ biết mà cho bú? Dầu khí đã nộp cho ngân sách hàng chục ngàn tỉ đồng mỗi năm, giờ ngân sách có “cứu” dầu khí? Mà “cứu” thì ngân sách lấy nguồn nào?

Thứ ba, một vấn đề có lẽ hơi xa nhưng cũng không thể bỏ qua: nếu giá dầu thế giới yếu thêm 1-2 năm nữa, nền kinh tế sẽ ra sao một khi không có PetroVietnam, tức PetroVietnam tạm “nghỉ ngơi” vài năm? Tập đoàn Dầu khí không thể trả lời câu hỏi này một mình được, người quyết định giờ là Chính phủ, là Nhà nước – chủ sở hữu của PetroVietnam.

Giá xăng dầu bán lẻ ở Việt Nam đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng một thập niên qua, kéo chỉ số lạm phát đứng ở mức thấp chưa từng có. Đáng lẽ ra sự giảm giá xăng phải tạo hiệu ứng tích cực lên nền kinh tế nhờ giá cước vận tải giảm. Thử hỏi có lĩnh vực kinh doanh nào không liên quan đến vận tải? Thế nhưng cước vận tải đang đứng ở mức cao hoặc chỉ giảm không đáng kể. Hiệu ứng giá xăng đã không tạo được sức đẩy cho các ngành nghề khác. Bàn tay quản lý của Nhà nước và điều tiết vĩ mô dường như đang tắc ở điểm này.

Trên thị trường chứng khoán, các cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi giá xăng dầu hoặc giá nguyên liệu đầu vào thấp tiếp tục là tâm điểm thị trường. Hãy nhìn ngành vận tải biển và đóng tàu, kinh doanh buôn bán tàu. Khi thị giá cổ phiếu của các công ty vận tải biển về dưới mệnh giá, rồi về mức 5.000 đồng, nhiều người cho rằng đã đủ rẻ, nên mua bỏ vào tủ cất đi ba năm. Hiện nay giá cổ phiếu vận tải biển còn đâu đó 2.000-3.000 đồng và ba năm đã trôi qua. Sự phục hồi của lĩnh vực này tiếp tục dời thời điểm vào tương lai.

Giá dầu quốc tế chứa đựng trong nó hai nhân tố cơ bản: sự đầu cơ và cung cầu bị chi phối của cả yếu tố kinh tế lẫn chính trị. Nó nằm ngoài tầm với của Việt Nam, của giới đầu tư ở Việt Nam, nên để theo được nó, trước hết các doanh nghiệp dầu khí phải tồn tại được đã. Cho đến khi chưa có nguồn tài chính nào bổ sung cho sự thiếu hụt của dòng tiền, mọi sự giải ngân vào cổ phiếu dầu khí hay cao su thiên thiên đều tiềm ẩn rủi ro.

Xem thêm: Công việc hấp dẫn ngành dầu khí/ Best oil & gas jobs in vietnam