Category Archives: Advice for employers

Bức tranh kinh tế 2017 – Những điều cần biết

Các doanh nghiệp đang hoạt động trong một môi trường khắc nghiệt với thị trường toàn cầu biến động từng giờ, nhiều bất ổn kinh tế liên quan đến chính trị làm phát sinh những rủi ro kinh doanh mới. Bên cạnh đó, tiến bộ công nghệ và làn sóng cải cách kinh tế mới từ các nước cũng mở ra những cơ hội chưa từng có cho các doanh nghiệp thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao sức cạnh tranh.

Có lẽ chưa bao giờ, thành công trong tương lai của một doanh nghiệp lại phụ thuộc nhiều vào sự tương tác giữa các yếu tố bên ngoài và sự nhạy bén của doanh nghiệp trong việc đưa ra những thay đổi chiến lược kịp thời như hiện nay.

PGS.TS. Vũ Minh Khương (trường Chính sách công Lý Quang Diệu – ĐHQG Singapore) nhận định, khi doanh nghiệp đứng trước những đổi thay nhanh chóng được thúc đẩy bởi tiến bộ công nghệ và xu thế thời đại, song song đó là sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ, “căn bệnh tự mãn” chính là một trong những yếu tố gây ra tổn thất lớn. Và để phòng tránh hiệu quả “căn bệnh” này, các doanh nghiệp hàng đầu cần một loại vaccin đặc biệt, đó là sự lo lắng về tương lai và tầm nhìn thôi thúc phải làm nên những thành công lớn hơn nhiều trong tương lai.

Trên thực tế, khi chèo lái con tàu doanh nghiệp trước những con sóng đầy thách thức, các nhà điều hành doanh nghiệp năng động luôn đau đáu những câu hỏi: Triển vọng về những cơ hội do hội nhập kinh tế khu vực mang đến là gì? Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với những thách thức nào trong năm 2017? Các nhà điều hành doanh nghiệp có thể bảo vệ hoạt động của họ trên lộ trình theo đuổi lợi nhuận và tăng trưởng như thế nào?

Hội thảo “Bức tranh kinh tế dành cho doanh nghiệp năm 2017” (The Economic Landscape of Business in 2017) với sự quy tụ của các chuyên gia kinh tế, chuyên gia tư vấn và CEO hàng đầu Việt Nam, sẽ đưa ra những góc nhìn và lời giải đáp cho những câu hỏi trên theo 3 khía cạnh:

– Những xu thế chiến lược trong bức tranh kinh tế toàn cầu và Việt Nam

– Chiến lược tăng trưởng và nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam

– Nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức: Bài học từ những doanh nghiệp điển hình

Họp báo công bố Hội thảo “Bức tranh kinh tế dành cho doanh nghiệp năm 2017” hôm 27/2/2017

Hội thảo diễn ra lúc 14 – 19h, thứ Bảy ngày 15/4/2017 tại Hội trường Thống Nhất – TP.HCM. Trong số 500 khách tham dự là CEO doanh nghiệp, chuyên gia, học giả trong và ngoài nước, nhiều nhân vật đã được biết đến với uy tín cao trong lĩnh vực hoạt động của mình, như: PGS. TS. Vũ Minh Khương; GS. John Behzad (thuộc Đại học Công lập California, Hoa Kỳ); TS. Võ Trí Thành – nguyên Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), tiến sĩ kinh tế của Trường Đại học Quốc gia Australia (ANU); TS. Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; bà Mai Kiều Liên – Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty CP Sữa Việt Nam (Vinamilk); ông Trần Bá Dương – Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải (Thaco); bà Vũ Thị Thuận – Chủ tịch Hội đồng Quản trị Traphaco; ông Mai Hữu Tín – nguyên Chủ tịch Hội doanh nhân trẻ Việt Nam khoá IV (nhiệm kỳ 2011-2014), Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty CP Đầu tư U&I…

Hội thảo là sự quy tụ và tương tác giữa các chuyên gia kinh tế, học giả và doanh nhân để có một cái nhìn tổng thể về Bức tranh kinh tế dành cho doanh nghiệp 2017, từ đó đúc kết những kinh nghiệm, những nghiên cứu để trình các nhà hoạch định chính sách hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

Thông qua Hội thảo, các bên sẽ cùng xem xét tình hình hiện tại của nền kinh tế toàn cầu và nền kinh tế Việt Nam để tìm ra những phương thức giúp doanh nghiệp Việt bảo vệ hoạt động và duy trì sự tăng trưởng bền vững trước bối cảnh đầy thách thức hiện nay.

Tìm hiểu thêm thông tin Hội thảo và đăng ký tham dự tại địa chỉ: http://buctranhkinhte.uel.edu.vn/

Kinh phí tham dự:

– Trước ngày 25/3/2017: 500.000 đ/khách tham dự (Đăng ký và chuyển khoản)

– Từ ngày 26/3/2017 – 5/4/2017: 700.000 đ/khách tham dự (Đăng ký và chuyển khoản)

– Từ ngày 6/4/2017 – 14/4/2017: 1.000.000 đ/khách tham dự (Có thể đóng tiền trực tiếp tại Hội thảo)

11 nơi dễ tìm việc nhất thế giới năm 2017

Một khảo sát mới đây của ManpowerGroup Outlook về tình hình việc làm trên toàn cầu cho biết, có 39 trong số 43 quốc gia dự định tăng đáng kể số lượng nhân viên. Phần lớn các quốc gia này đến từ khu vực Đông Âu và châu Á.

Dưới đây là 11 quốc gia và vùng lãnh thổ có nhu cầu tuyển dụng cao nhất trong năm 2017, theo kết quả khảo sát trên.

1. Đài Loan

Đài Loan được xem là một trong những nơi tốt nhất trên thế giới dành cho người nước ngoài muốn phát triển sự nghiệp. Vùng lãnh thổ này đang trên đà phát triển, được đánh giá sớm trở thành trung tâm về công nghệ và tài chính của khu vực.

2. Nhật Bản

Nhật Bản được đánh giá có mức độ tin cậy cao nhất trong việc tuyển dụng nhân sự trên thế giới nhờ vào nền văn hóa làm việc nguyên tắc, môi trường làm việc cường độ cao, sôi động ở những thành phố lớn như Tokyo.

3. Slovenia

Trong khi các nhà tuyển dụng Tây Âu dè dặt hơn trong việc thuê thêm nhân sự so với các khu vực khác, thì tại Nam Âu, các công ty lại tăng cường mở rộng việc làm, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ.

4. Ấn Độ

Ấn Độ là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Quốc gia này đang thuê thêm nhân sự làm việc trong các lĩnh vực như dịch vụ chuyên nghiệp và sản xuất.

5. Hungary

Hungary hiện là đất nước có chi phí sinh hoạt thấp nhất ở châu Âu. Đây cũng là nơi mà thị trường việc làm tương đối sôi động, đặc biệt là trong năm 2017.

6. Mỹ

Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ kết thúc cũng là lúc các công ty nước này bắt đầu mở rộng quy mô nhân sự trở lại, Bussines Insider nhận định.

7. Romania

Romania đang trở thành điểm đến thu hút các công ty muốn mở rộng quy mô kinh doanh ở châu Âu vì chi phí sinh hoạt rẻ, tiền lương cho nhân viên tương đối thấp nhưng bù lại, chất lượng cuộc sống và văn hóa của nước này lại vô cùng phong phú.

8. Hong Kong

Được đánh giá là một trong những nơi đắt đỏ nhất thế giới nhưng Hong Kong đóng vai trò quan trọng trong việc là trung tâm tài chính của châu Á. Đồng thời, nơi này được xem như một cửa ngõ cho các dịch vụ tài chính ở Trung Quốc.

9. Bulgaria

Trong những năm gần đây, Bulgaria đã có sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Các công ty ở nước này cũng đang mở rộng lực lượng lao động trên nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm dịch vụ chuyên nghiệp và khai thác mỏ.

10. Guatemala

Khu vực tư nhân hiện chi phối nền kinh tế của Guatemala và tạo ra khoảng 85% GDP cho nước này. Các công ty tại đây đang xem xét kế hoạch phát triển nhân sự trong những quý tiếp theo.

11. New Zealand

Không chỉ nổi tiếng với phong cảnh tự nhiên hùng vĩ và đứng hàng đầu thế giới về xếp hạng chất lượng cuộc sống, New Zealand hiện còn mở ra nhiều cơ hội cạnh tranh về việc làm cho người dân trong nước cũng như nước ngoài.

Số phận những công ty sống ký sinh vào iPhone

Có ít nhất 6 công ty lớn sẽ sẽ sụt giảm giá trị thảm hại chỉ sau một công bố không sử dụng sản phẩm của họ từ Apple.

Thành công của iPhone là vô tiền khoáng hậu. Với hơn 1 tỷ chiếc iPhone bán ra trong suốt 9 năm qua, smartphone mang tính biểu tượng của Apple không chỉ thay đổi cách người ta sử dụng công nghệ và còn biến Apple thành công ty thành công và có ảnh hưởng nhất thế giới.

Trong suốt con đường đó, Apple và iPhone được xem là mỏ vàng cho hàng loạt công ty, vốn là đối tác sản xuất hoặc cung cấp linh kiện cho họ. Do đó, mặc dù iPhone giúp một số công ty đạt lợi nhuận khổng lồ, việc phụ thuộc quá nhiều vào Apple chính là một mối nguy.

Trường hợp của Imagination Technologies mới đây là ví dụ điển hình. Cổ phiếu của hãng này sụt giảm gần 70% sau khi Apple hé lộ thông tin tự thiết kế kiến trúc GPU mới cho iPhone.

Tương tự, cổ phiếu của Dialog Semiconductor giảm hơn 30% khi có báo cáo cho rằng Apple có hứng thú với việc tự phát triển con chip quản lý pin.

Statista mới đây đưa ra danh sách một loạt công ty được xem là “sống ký sinh” vào Apple. Theo đó, doanh thu từ việc sản xuất linh kiện cho Apple thường chiếm hơn 50% doanh thu hàng năm của họ.

6 công ty có mức độ phụ thuộc lớn vào Apple. (% doanh thu dựa trên báo cáo tài chính năm 2016). Nguồn: Company Fillings.

“Phụ thuộc vào một đối tác duy nhất là mối nguy lớn. Đó cũng là lý do Apple đối xử với các công ty này một cách kém công bằng hơn so với những công ty có danh sách khách hàng dồi dào hơn. Nó cũng đưa Apple lên vị thế cửa trên khi đàm phán hợp đồng. Ở đó, họ có thể yêu cầu các điều khoản có lợi cho mình”, Statista cho hay.

Trong bảng thống kê trên, có thể thấy Dialog Semiconductor có lý do để lo lắng nhất khi họ phụ thuộc quá lớn vào Apple. Mặc dù vậy, không phải đối tác nào cũng cần lo sợ như vậy. Chẳng hạn, Apple khó tìm kiếm được đối tác nào có năng lực sản xuất lớn hơn Foxconn để lắp ráp iPhone.

Tuy nhiên, bảng thống kê nói trên chỉ nhắc đến những công ty lớn, niêm yết rõ ràng. Trên khắp thế giới, có hàng nghìn những công ty khác được xem là sống gửi vào Apple, từ các đơn vị sản xuất phụ kiện, cửa hàng buôn bán sản phẩm Apple mà người ta chưa thể thống kê hết được.

Chẳng hạn mới đây, động thái yêu cầu dỡ bỏ bảng hiệu có liên quan đến thương hiệu Apple của đại diện pháp lý Apple tại Việt Nam hay việc dấy lên tin đồn Apple cấm việc sửa chữa iPhone từ các đơn vị không được ủy quyền cũng gây sóng gió lớn cho giới kinh doanh trong nước.

Thành Duy
* Nguồn: Zing News

Sau Vinasun, đến lượt Mai Linh than khó vì Uber và Grab

Mở đầu báo cáo thường niên năm 2016 mới được công bố, ban lãnh đạo Tập đoàn Mai Linh nhấn mạnh, năm 2016 là một năm cực kỳ khó khăn đối với tập đoàn.

Nguyên nhân do Uber, Grab hoạt động tràn lan, nhất là ở hai thành phố lớn như Tp.HCM và Hà Nội khiến thị trường taxi cạnh tranh khốc liệt, trong đó sự bất bình đẳng về thuế và các điều kiện kinh doanh khác đã gây thiệt hại lớn về doanh thu cho Mai Linh cũng như các hãng taxi truyền thống.

Theo số liệu chính thức, chỉ trong vòng vài năm trở lại đây, số lượng taxi Uber và Grab ở Tp.HCM đã lên tới 21.000 xe, nếu kể cả xe chạy “lụi” không đăng ký ước tính phải đến 25.000 xe (trong khi qui hoạch taxi của Tp.HCM đến nay chỉ cho phép tổng cộng 11.000-12.000 xe) làm trật tự giao thông đô thị bị phá vỡ, kẹt xe nghiêm trọng, nhà nước thất thu thuế…

Bên cạnh đó, tại nhiều địa phương, các công ty taxi khác mới ra đời đã phá điểm, phá giá để tranh giành thị phần cũng gây nhiều khó khăn cho các đơn vị chi nhánh của Mai Linh.

Kết thúc năm tài chính 2016, doanh thu của Mai Linh vẫn tăng trưởng mạnh 32,3% so với năm 2015, đạt 3.730 tỷ đồng do tập đoàn đẩy mạnh đầu xe.

Lợi nhuận Mai Linh sụt giảm vì mất thị phần.

Doanh thu từ hoạt động taxi/tổng doanh thu năm 2016 là 86,22%; tỷ lệ này tăng so với năm 2015 (80,29%) cho thấy hoạt động taxi tiếp tục đóng vai trò là hoạt động kinh doanh chủ lực, chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu doanh thu toàn hệ thống tập đoàn.

Mặc dù doanh thu tăng đáng kể, nhưng do các khoản chi phí tài chính và chi phí quản lý tăng khiến lợi nhuận trước thuế năm 2016 giảm 62% so với năm trước, đạt 61,12 tỷ đồng.

Trong năm 2016, Mai Linh đã đầu tư 2.096 xe và thanh lý 789 xe, đưa tổng số phương tiện taxi của toàn hệ thống tính đến ngày 31/12/2016 là 14.358 phương tiện.

Về tình hình thực hiện thu lao, trong năm qua, công ty đã dự toán thù lao và chi phí hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát tối đa là 3,5 tỷ đồng.

Trong đó, 5 thành viên Hội đồng quản trị nhận 2,4 tỷ đồng, tương đương với mỗi thành viên nhận về 40,5 triệu đồng một tháng. 3 thành viên Ban Kiểm soát nhận 715 triệu đồng. Như vậy người sẽ nhận 20 triệu đồng một tháng.

Năm 2017, Mai Linh đặt mục tiêu doanh thu 3.800 tỷ đồng, lợi nhuận 68 tỷ đồng; đầu tư 2.404 xe và thanh lý 810 xe; xe cuối kỳ đạt 15.839 xe.

Kiều Linh
* Nguồn: VN Economy

Vì sao CEO nên “xóa mù” mạng xã hội?

Giáng sinh 2016, CEO dịch vụ đặt phòng, căn hộ Airbnb Brian Chesky đã làm một điều bất thường, đó là dành nhiều giờ trên Twitter để thực hiện một nghiên cứu thị trường, có thể giúp cho các chiến lược của công ty trong năm 2017.

Anh bắt đầu bằng câu hỏi đơn giản: Nếu @Airbnb ra mắt thứ gì đó năm 2017, nó sẽ là gì?

Hàng trăm ý tưởng được gửi đến, từ các sản phẩm dễ hiện thực hóa như bổ sung dịch vụ lau dọn, đặt bữa cho đến nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp như giảm tình trạng phân biệt đối xử, quyên góp từ thiện nhiều hơn. Thậm chí, có người còn đề xuất dịch vụ cho thuê trên… Sao Hỏa.

Người dùng Twitter không bỏ lỡ cơ hội đưa ra gợi ý của mình và quan trọng hơn, họ biết rằng suy nghĩ đó đang được lắng nghe, đánh giá bởi người đưa ra quyết định cuối cùng của công ty. Còn phải xem nghiên cứu của Chesky hiệu quả đến đâu, song động thái có lẽ đã làm cho lòng trung thành với nhãn hiệu tăng lên.

Câu chuyện này dạy cho chúng ta bài học CEO dùng mạng xã hội để củng cố nhận thức nhãn hiệu đối với công chúng như thế nào, nó đồng thời truyền tải thông điệp mạnh mẽ rằng các lãnh đạo biết giao tiếp tốt trên mạng xã hội bộc lộ nhiều ưu điểm, khiến họ trở thành người cầm quân tốt hơn.

Trong nghiên cứu High Resolution Leadership của DDI, kỹ năng lãnh đạo của 250 ứng cử viên được phân tích và đối chiếu với hoạt động của họ trên mạng xã hội. Kết quả cho thấy, so với những người đồng cấp không tích cực trên mạng, các ứng cử viên còn lại: tốt hơn 89% trong việc trao quyền cho người khác; tốt hơn 52% trong thuyết phục; 46% có ảnh hưởng hơn; 36% nuôi dưỡng mạng lưới tốt hơn; 19% đam mê hơn và 16% ra quyết định tốt hơn.

Hình bản quyền bởi StockUnlimited.

Ngoài việc cho thấy hành vi lãnh đạo mạnh mẽ, các ứng cử viên CEO mạng xã hội cũng có các điểm tương đồng về tính cách để đưa ra phán xét tốt hơn. Không ngạc nhiên khi họ có tính xã hội cao hơn và tương tác với người khác nhiều hơn. Họ cũng ít tranh cãi, ít né tránh, có khuynh hướng hành động hơn. Họ không cố trở nên hoàn hảo, tránh được các sai lầm nhỏ trong quản lý hoặc chỉ trích người khác quá đáng. Tuy nhiên, nhược điểm là họ có xu hướng tìm kiếm sự chú ý hơn người khác, tức là yêu cầu phản hồi nhiều hơn.

Bất chấp mối liên hệ tích cực giữa lãnh đạo và hiện diện trên mạng xã hội, các CEO ngày nay còn khá e dè với mạng xã hội. Trong phân tích 100 CEO có năng lực nhất của Harvard Business Review, ngay cả tiêu chí thấp nhất để được cho là “có tính chất xã hội” là có ít nhất một bức ảnh đại diện và kết nối trên LinkedIn và/hoặc Twitter, kết quả khá thất vọng: chỉ 20% CEO làm được.

Trong số này, 18 dùng LinkedIn, 7 dùng Twitter và chỉ có 4 dùng cả 2 nền tảng. Tương tự, các nhà nghiên cứu của Đại học Bắc Calirona cho hay, chỉ có khoảng 8% đang dùng Twitter và khoảng 70% chủ động cập nhật.

Trong tương lai, mạng xã hội sẽ là lĩnh vực quyền lực, giúp các công ty xác định được CEO nào đã chuẩn bị kỹ càng để điều hành doanh nghiệp.

Du Lam / CNBC
* Nguồn: ICT News