Category Archives: Job seeker

Đưa ra quyết định với nguyên tắc 10/10/10

Quá khó chọn lựa? Không thể đưa ra quyết định để nắm bắt cơ hội đổi đời vì nhiều lý do khác nhau? Hãy sử dụng nguyên tắc 10/10/10 và bạn sẽ có câu trả lời chính xác nhất.

Bạn vừa có được một cơ hội công việc tuyệt vời. Điều này đồng nghĩa với việc bạn sẽ có thu nhập tăng và có nhiều cơ hội để phát triển sự nghiệp bản thân. Phản ứng đầu tiên hình thành trong tâm trí bạn là chẳng có lý do gì để mà từ chối cơ hội hiếm có như vậy.

Tuy nhiên, để đảm nhận vị trí này bạn phải chuyển đến một nơi ở khác. Một suy nghĩ khác lóe lên trong đầu bạn rằng bạn sẽ phải rời bỏ cuộc sống hiện tại. Hai suy nghĩ giằng co trong tâm trí.

Một cơ hội thế này có thể chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong đời nhưng làm thế nào bạn có thể rời bỏ cha mẹ già, bạn bè, tất cả mọi thứ đã trở thành quen thuộc chỉ để có được cơ hội phát triển sự nghiệp.

Một quyết định khó khăn. Ở lại hay ra đi. Dù đã cân nhắc ưu và nhược điểm nhưng để có được một quyết định đúng đắn quả thật không dễ dàng gì.

Khi đối mặt với một quyết định khó khăn, tốt nhất bạn hãy nhấn nút tạm dừng vào thời điểm này để áp dụng nguyên tắc 10/10/10. Công thức đơn giản này có thể giúp bạn có những suy nghĩ rõ rằng hơn trước những tình huống khó khăn.

Nguyên tắc 10/10/10

Là một nhà bình luận, cựu biên tập viên của Harvard Business Review và đồng thời cũng là một người mẹ, Suzy Welch, tạo ra và áp dụng nguyên tắc 10/10/10 để giúp bà cân bằng giữa công việc bận rộn của mình và với gia đình. Bà sử dụng nguyên tắc này như một công cụ gỡ rối khi phải đối mặt với các tình huống khó khăn.

Trước khi đưa ra quyết định hãy nhấn nút tạm dừng và tự hỏi bản thân 3 câu hỏi sau:

1. Sau 10 phút chúng ta cảm thấy thế nào về quyết định của mình?

2. Sau 10 tháng thì sao?

3. Sau 10 năm thì thế nào?

Ba khung thời gian này khéo léo buộc chúng ta phải nhìn nhận lại quyết định của mình.

Bởi lẽ không phải đưa ra quyết định ngay tức khắc, quyết định dễ bị chi phối bởi cảm xúc nhất thời, Welch nhận thấy mình có cách giải quyết vấn đề dễ dàng hơn.

Áp dung nguyên tắc 10/10/10 để đưa ra quyết định quan trọng trong cuộc sống của bạn như hôn nhân. Bạn tin rằng cuối cùng bạn đã tìm được người bạn đời đích thực. Ngay lập tức bạn muốn kết hôn với người đó. Nhưng hãy dừng lại một chút. Tự hỏi lại bản thân mình bạn cảm thấy thế nào về quyết định này sau 10 phút. Sau đó nếu 10 tháng sau thì sao? Rồi 10 năm sau mối quan hệ của bạn vẫn tốt hay đó là một quyết định sai lầm.

Quy tắc 10/10/10 giúp cảm xúc trở nên ổn định. Cảm xúc nhất thời rất mạnh mẽ và quyết liệt, tuy nhiên, sẽ giảm dần theo thời gian.

Sự khác biệt này tạo nên áp lực lớn vào thời điểm hiện tại bởi sự dâng trào của cảm xúc. Quy tắc 10/10/10 buộc chúng ta phải thay đổi góc nhìn, đòi hỏi chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn về những quyết định của mình.

Nguyên tắc 10/10/10 được xem như công cụ giúp cuộc sống của chúng ta trở nên dễ dàng hơn.

6 cách tăng cường khả năng tập trung

Đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra sự phản tác dụng của việc làm nhiều thứ cùng lúc, hay còn gọi là đa nhiệm (multitask). Khi đa nhiệm, chúng ta thường cảm thấy bản thân làm được nhiều việc hơn, nhưng thực tế lại không phải như vậy: đa nhiệm một cách thường xuyên có thể làm suy giảm khả năng tập trung.

Tuy nhiên, nếu bạn là một người “mắc bệnh” đa nhiệm mãn tính, luôn cảm thấy khó tập trung, liệu có hi vọng nào cho bạn lấy lại được những gì đã mất?

Nhà thần kinh học Daniel Levitin, giáo sư tâm lý học tại Đại học McGill (Canada) và là tác giả của quyển sách This is Your Brain on Music: The Science of a Human Obsession (Đây là bộ não của bạn khi nghe nhạc) đã chỉ ra cho chúng ta vài phương pháp thú vị để cải thiện khả năng tập trung và làm việc hiệu quả hơn:

Bước 1: Hãy ngủ nhiều hơn

Levitin cho biết, ngay khi chúng ta nghĩ đến các vấn đề công việc cần sự tập trung, khả năng chú ý của chúng ta phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện sinh lý. Nếu bạn không ngủ đủ giấc hoặc cảm thấy căng thẳng tột độ, bạn sẽ cảm thấy rất khó khăn để duy trì sự tập trung.

Caffeine có thể làm tăng khả năng tập trung ở một số người, nhưng lại có thể làm suy yếu khả năng này ở một số người khác, do làm họ cảm thấy lo lắng hoặc “bồn chồn”. Hãy thấu hiểu các nhu cầu của cơ thể để có thể nghỉ ngơi đúng cách và duy trì khả năng tập trung.

Bước 2: Hãy liệt kê ra những gì khiến bạn mất tập trung

Khi ai đó cố gắng thiền lần đầu tiên, việc tâm trí của họ đi lang thang hoặc để những suy nghĩ mông lung len lỏi vào tâm trí là điều hết sức bình thường, Diana Raab – tác giả của cuốn Healing with Words: A Writer’s Cancer Journey (Chữa bệnh bằng ngôn ngữ) cho biết, “Chúng tôi gọi đó là tâm trí con khỉ (monkey mind) và hiện tượng tương tự cũng có thể xảy ra khi bạn dành thời gian để tập trung vào việc gì đó”.

Raab khuyên thêm là hãy viết ra những suy nghĩ bỗng nhiên xuất hiện trong tâm trí của bạn, như vậy bạn có thể khiến cho những điều phiền nhiễu này trôi đi mất, hoặc lưu lại để còn nhớ và giải quyết chúng sau này.

Bước 3: Hãy tắt bớt những thiết bị gây phiền nhiễu

Giống như bất cứ việc gì khác, nếu muốn tăng cường sự tập trung thì bạn phải tạo ra các điều kiện giúp bản thân thành công dễ dàng hơn, đây là ý kiến của chuyên gia phát triển con người Benjamin Brooks – người sáng lập của PILOT. Hãy luôn chắc chắn bạn có đủ những gì cần thiết trong tay và dành ra một khung giờ riêng khi xử lý công việc.

Brooks cho biết thêm: “Hãy chắc chắn là bạn đã tắt thông báo từ email và các mạng xã hội khác”. Một khi các thông báo này được kích hoạt trên điện thoại thì chúng có thể điều khiển sự chú ý của bạn, gây tác động xấu đến việc tập trung.

Bước 4: Theo đuổi đến cùng những dự định của bản thân

Điều này nghe có vẻ đơn giản nhưng để có thể tập trung vào một điều gì đó, bạn phải cam kết với bản thân là sẽ làm điều đó. Levitin nói thêm, nếu không có những cam kết như vậy, bạn sẽ bị phân tâm bởi chính những suy nghĩ của bạn hoặc các nhu cầu khác của bản thân.

Bạn phải quyết định rằng đây là công việc bạn sẽ hoàn tất ngay bây giờ và bạn phải thực hiện ngay và luôn, mà không cần đoái hoài đến các việc khác.

>> 3 phương pháp tập trung để tăng hiệu suất làm việc

Bước 5: Chịu khó thực hành

Levitin cho biết, việc giành lại sự tập trung đòi hỏi phải thực hành rất nhiều.

Bạn có thể cần phải bắt đầu với bài tập 10 phút – buộc bản thân phải tập trung vào công việc trong đúng 10 phút. Sau đó, từng bước tăng thời lượng tập trung.

Mục tiêu ở đây là có thể giữ vững được sự tập trung vào công việc trong khoảng thời gian từ 25 đến 90 phút, thời lượng tập trung ở đây hoàn toàn tùy thuộc vào loại hình công việc và yếu tố tâm sinh lý của mỗi cá nhân.

Bước 6: Kết hợp giờ “nghỉ giữa hiệp”

Brooks cho biết, ở giữa các giai đoạn tập trung, việc nghỉ giải lao chút ít có thể giúp bạn tăng cường khả năng tập trung nhiều hơn.

Những loại hình nghỉ ngơi khác nhau sẽ mang lại hiệu quả khác nhau dành cho từng người, điểm mấu chốt ở đây là chuyển sang một thứ gì đó hoàn toàn khác so với những gì mà bạn đang làm trước đây.

Brooks lấy ví dụ: “Có thể dừng hoàn toàn công việc để đọc một cuốn sách về hàng không hoặc pha cho mình một tách cafe hay xem gì đó mới trên Internet, một cái gì đó hoàn toàn khác những việc bạn hay làm. Việc này cho phép tôi khởi động lại bản thân, nhờ vậy khi trở lại làm việc, tôi sẽ làm việc một cách hiệu quả chứ không phải bị chìm sâu vào mớ phân tâm hỗn độn”.

6 việc người “siêu năng suất” thường làm hàng ngày

Có một chuyện rõ ràng là mọi người đều có cùng số giờ làm việc trong một ngày. Vậy tại sao một số người lại làm được nhiều việc hơn hẳn? Họ nhanh hơn ư? Hay họ thông minh hơn? Họ có nhiều sự trợ giúp hơn chăng? Có lẽ là vậy, nhưng quan trọng hơn hết, họ có những thủ thuật tận dụng thời gian và loại bỏ những việc không quan trọng.

Dưới đây là 6 điều mà những người “siêu năng suất” làm hàng ngày để đạt được kết quả và thành công tối đa:

1. Khởi đầu ngày mới theo lịch trình cố định

Sự nhất quán và các thói quen tốt là hữu ích để bạn chủ động bắt đầu một ngày mới. Trong vô số những thứ ngổn ngang, người “siêu năng suất” sẽ tìm thấy một danh sách các việc cần làm và sắp xếp chúng thật khoa học.

Doanh nhân kiêm diễn giả nổi tiếng Gary Vaynerchuk – người từng làm nhà đầu tư hoặc cố vấn cho các công ty như Uber, Facebook, Twitter và Tumblr cho biết, ông luôn thức dậy vào lúc 6 giờ mỗi buổi sáng và tuân theo những thói quen đều đặn.

Gary nói: “Tôi bắt đầu ngày mới bằng cách tiêu thụ khá nhiều thông tin. Tôi truy cập vào ứng dụng Techmeme và đọc qua các bài viết. Tôi đọc bản newsletter của Jason Hirschhorn. Sau đó, tôi bắt đầu xem các trang tin tức, chủ yếu là trang tổng hợp Nuzzel để xem những bản tin mà bạn bè tôi thường chia sẻ”.

Sau khi cập nhật thêm thông tin trên Twitter và Instagram của mình, Gary Vaynerchuk đến phòng gym để tập thể dục cùng huấn luyện viên của mình; trở về nhà dùng bữa sáng với gia đình trước khi bắt đầu ngày làm việc; và rồi chuẩn bị tinh thần cho cuộc họp đầu tiên trong ngày. Gary cho biết: “Từ trước khi bước vào phòng họp, tôi đã thu thập được khá nhiều thông tin”.

2. “Khóa” thời gian cho các nhiệm vụ quan trọng

Người “siêu năng suất” hiểu sự khác biệt giữa các nhiệm vụ quan trọng và nhiệm vụ cấp bách. Trong khi những việc quan trọng thúc đẩy việc kinh doanh tiến về phía trước, thì những nhiệm vụ cấp bách đóng vai trò “dập lửa” ngay trước mắt.

Bạn sẽ dễ bị thôi thúc muốn lấp đầy ngày làm việc của mình với các nhiệm vụ cấp bách vì chúng có vẻ quan trọng hơn trong thời điểm đó. Tuy nhiên, bạn sẽ không bao giờ có cơ hội sáng tạo và vươn xa hơn nếu như bạn không chịu khám phá các cơ hội mới.

Gary Keller – người sáng lập hãng bất động sản Keller Williams Realty kiêm tác giả cuốn sách bestseller The ONE thing, là chuyên gia hàng đầu về việc sắp xếp thứ tự ưu tiên công việc. Keller viết “Yếu tố quan trọng nhất ở đây là thời gian. Thành công được xây dựng theo tuần tự, mỗi thời điểm bạn phải tập trung vào một công việc”.

Để định hình xem công việc quan trọng nhất (the one thing) là gì, Keller nhìn vào các mục tiêu của mình trong năm nay và tự hỏi, “Nếu làm chuyện gì thì sẽ làm cho mọi việc còn lại dễ dàng hơn hay là thậm chí không cần thiết nữa?”. Sau đó, ông sử dụng 4 giờ đầu tiên của mỗi ngày để làm duy nhất chuyện đó.

Keller đã sử dụng kỹ năng đó trong việc viết sách và phát triển công ty của mình trở thành chuỗi kinh doanh bất động sản hàng đầu. Ông tin rằng cho đến khi công việc quan trọng hàng đầu của mình được hoàn tất thì mọi thứ khác đều là phiền nhiễu.

3. Tận dụng lịch một cách tối đa

Peter Bregman, tác giả của cuốn bestseller Four Seconds: All the Time You Need to Replace Counter-Productive Habits with Ones that Really Work (Bạn chỉ cần 4 giây để thay thế thói quen xấu bằng thói quen tốt), cho biết mặc dù việc lập danh sách những việc phải làm (to-do list) là cần thiết, thế nhưng những người “siêu năng suất” không chạy theo nó. Thay vào đó, Bregman đề xuất việc kê tất cả các công việc phải làm lên lịch và sử dụng nó để lên kế hoạch hàng ngày.

Bregman viết trên blog của mình: “Chủ động quyết định khi nào và nơi nào bạn sẽ làm việc gì, và như thế khả năng bạn hoàn tất việc đó sẽ gia tăng đáng kể”. Theo Bregman, lịch giúp bạn sắp xếp ưu tiên của mình: “Đâu là những việc cần hoàn thành trong ngày hôm nay? Có việc nào quan trọng bạn đã bỏ sót? Bạn có thể đặt chúng vào đâu trong lịch trình của mình?”.

Ông cho biết: “Lịch là hữu hạn và chỉ có một số khung giờ nhất định trong một ngày. Lập kế hoạch trên lịch giúp bạn nhận ra mình đang cố nhồi nhét quá nhiều thứ vào một không gian hữu hạn”.

4. Biết thời gian trôi qua từng phút, không phải từng giờ

Những người “siêu năng suất” luôn muốn vòng xoay công việc của mình thật hiệu quả, họ không muốn để từng phút từng giây bị trôi qua một cách lãng phí.

Grant Cardone, tác giả của cuốn The 10X Rule: The Only Difference Between Success and Failure (Quy tắc 10X: Khác biệt giữa thành công và thất bại), chia sẻ kinh nghiệm học được từ Alan Greenspan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Theo đó, Greenspan bố trí lịch làm việc của mình theo từng cụm 15 phút, thay vì theo từng giờ.

Cardone cho biết khi bạn phân chia thời gian như vậy, bạn sẽ tìm được cách tận dụng hết thời gian có sẵn có: “Greenspan không để lại bất cứ khoảng trắng nào trên lịch vì ông ta biết rằng mỗi khoảng trắng là một lần lãng phí thời gian”.

Doanh nhân Gary Vaynerchuk cũng phân bố lịch trình của mình thành từng cụm nhỏ. Ông cho biết “Mỗi phút đều rất quan trọng, nên tôi lên kế hoạch cho từng giây một. Tôi không đùa đâu: Tôi đã từng và vẫn đang có những cuộc họp chỉ kéo dài ba hay bốn phút. Bạn phải tận dụng từng giây bạn có trong ngày”.

5. Không bị ám ảnh bởi email

Chúng ta đều biết rằng email có thể gây lãng phí thời gian nhưng dường như không mấy ai làm gì để cải thiện điều đó. Một nghiên cứu gần đây của hãng Adobe cho thấy bình quân chúng ta dành ra 7,4 giờ mỗi tuần để lên email.

Jason Jennings,  tác giả của cuốn Less is More: How Great Companies Use Productivity (Những công ty vĩ đại cải thiện năng suất như thế nào), cho biết những người làm việc hiệu quả không tự biến mình thành nô lệ của công nghệ. Ông phát biểu trên tạp chí Prevention: “Hầu hết họ chỉ kiểm tra email hai hoặc ba lần một ngày. Bạn hãy xác định thời gian kiểm tra email trên lịch của mình, và xử lý email trong một lượng thời gian cố định.”

Theo một nghiên cứu từ Đại học British Columbia, việc kiểm tra email thường xuyên chỉ khiến cho bạn mất thời gian cho việc trả lời thêm mà thôi. Trong thí nghiệm của đại học này, những người tham gia được chia thành hai nhóm, một nhóm kiểm tra email 3 lần/ngày và nhóm kia kiểm tra bao nhiêu lần tùy thích. Kết quả cho thấy những người chỉ kiểm tra email 3 lần/ngày tiết kiệm được 20% thời gian trong việc trả lời email, cũng như cảm thấy ít bị stress hơn so với trước đây.

6. Biết tự chăm sóc bản thân

Bạn không thể làm việc có hiệu quả nếu như không có sức khỏe. Nhà sáng lập Virgin Group là tỷ phú Richard Branson thức dậy đều đặn lúc 5 giờ sáng mỗi ngày để tập thể dục. Branson phát biểu trong một cuộc phỏng vấn với FourHourBodyPress: “Tôi chắc chắn có thể đạt được thành công gấp đôi nếu giữ được cơ thể chắc khoẻ. Việc đó giúp cho não hoạt động tốt hơn”.

Ngoài việc tập luyện trước khi đến văn phòng, các bài tập trong giờ làm việc cũng mang lại hiệu quả không kém. Một nghiên cứu tại Đại Học Leeds Metropolitan ở Anh phát hiện ra rằng những nhân viên sử dụng phòng tập thể dục gần nơi làm việc sẽ mang lại năng suất cao hơn.

Những người thành công cũng chú trọng việc ngủ đủ giấc. Cả Bill Gates, Tim Cook, và Arianna Huffington đều giữ thói quen ngủ 7 tiếng một đêm. Các nhà nghiên cứu Phần Lan đã chỉ ra rằng những người ngủ không đủ giấc sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn và phải xin nghỉ nhiều ngày hơn.

Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí y khoa Sleep, dành ra 7 đến 8 giờ mỗi đêm cho giấc ngủ là khoảng thời gian tối ưu để tái tạo năng lượng sau một ngày dài làm việc.

7 phẩm chất cần để có quyền lực

Hầu hết các tổ chức chỉ có một người “số một”: một CEO trong một công ty, một tổng thống hoặc thủ tướng mỗi thời, một hiệu trưởng trong mỗi trường học… Thậm chí ở quy mô nhỏ hơn: một trưởng phòng trong mỗi phòng ban, một tổ trưởng trong mỗi đội nhóm, một lớp trưởng trong mỗi lớp học…

Với ngày càng nhiều người có đủ trình độ lúc nào cũng cạnh tranh cho một nấc trên chiếc thang địa vị của tổ chức, sự ganh đua thật căng thẳng và chỉ càng ngày càng căng thẳng thêm khi vị trí quản lý càng ngày càng ít đi.

Theo GS. Jeffrey Pfeffer – ngành Hành vi tổ chức thuộc khoa Quản trị kinh doanh của Đại học Stanford, một trong 25 nhà tư tưởng quản trị hàng đầu và có tầm ảnh hưởng nhất thế giới, theo xếp hạng của Thinker 50, có 3 lý do bạn nên có quyền lực. Đó là: Thứ nhất, quyền lực giúp người ta có sức khỏe tốt hơn và sống lâu hơn; thứ hai, quyền lực mang đến cho người ta sự giàu có; và thứ ba, quyền lực là một phần của lãnh đạo.

GS. Jeffrey Pfeffer cho biết: “Để được thăng tiến, một số cá nhân cạnh tranh phá vỡ quy luật của cuộc chơi công bằng hoặc hoàn toàn phớt lờ những quy luật đó. Đừng than phiền về điều này hoặc ước thế giới sẽ khác đi. Bạn có thể cạnh tranh và thành công ở mọi thể loại tổ chức, lớn và nhỏ, công và tư, nếu bạn hiểu và sẵn sàng sử dụng các nguyên tắc của quyền lực. Nhiệm vụ của bạn là biết cách chiếm ưu thế trong cuộc chiến mà bạn phải đối mặt. Nhiệm vụ của tôi trong cuốn sách này là nói cho bạn biết cách thực hiện điều đó”.

Cuốn sách mà Pfeffer nhắc đến là Power: Why Some People Have and Others Don’t  (bản tiếng Việt là Quyền lực – Vì sao người có kẻ không? của ThaihaBooks). Cuốn sách này của GS. Jeffrey Pfeffer chứa đựng những lời khuyên mới lạ, vô vàn ví dụ thực tế từ khắp nơi trên thế giới, cùng những phát hiện thú vị đúc kết trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy hàng chục năm của ông về chiến thuật và cách thức để một người có thể tiến đến quyền lực và thành công trong sự nghiệp.

Quyền lực - Vì sao người có kẻ không doanhnhansaigon

Pfeffer nói rằng, “Trên con đường đạt đến vị trí quyền lực, gần như mọi chuyện đều có thể xảy ra. Bạn có thể vươn tới vị trí quyền lực cao ngay cả trong những trường hợp khó khăn nhất nếu bạn có kỹ năng”, và khẳng định “Thành công bắt đầu bằng sự chuẩn bị”. Câu chuyện dẫn chứng của Pfeffer là:

“Ron Meyer, Chủ tịch và Giám đốc điều hành hãng phim Universal Studios kể từ năm 1995, là người đứng đầu một hãng phim lớn trong khoảng thời gian lâu nhất. Là một nhân vật có tầm ảnh hưởng trong ngành công nghiệp phim, Meyer còn là minh chứng sống về việc thay đổi cuộc đời. Ron Meyer bỏ học khi mới 15 tuổi, và hai năm sau, ông gia nhập thủy quân lục chiến Hoa Kỳ Sau khi rời thủy quân, ông làm tài xế cho một hãng chuyên về tuyển chọn và đào tạo tài năng – vị trí cho phép ông học hỏi được nhiều điều về ngành giải trí vì ông được lắng nghe các cuộc trò chuyện của khách hàng. Sau khi làm đại lý cho hãng William Morris Agency, Meyer và một số người bạn thành lập hãng Creative Artists Agency, một vị trí giúp ông trở thành người môi giới quyền năng ở Hollywood.

Cũng như nhiều người thành công khác, Meyer đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời mình. Ông đã phát triển các phẩm chất giúp ông đạt được và duy trì sức ảnh hưởng. Nếu muốn làm được như vậy, bạn cần phải vượt qua ba trở ngại. Trước tiên, bạn cần phải tin rằng có thể thay đổi được bản thân, nếu không bạn sẽ chẳng gắng sức phát triển các phẩm chất đem lại cho bạn sức mạnh. Thứ hai, bạn cần phải nhìn nhận điểm mạnh và điểm yếu của mình theo cách khách quan nhất có thể. Đây là việc khó, vì trong khao khát thúc đẩy bản thân, chúng ta thường tránh những thông tin tiêu cực và nhấn mạnh thái quá vào những phản hồi tích cực mà chúng ta nhận được. Và thứ ba, bạn cần phải hiểu được những phẩm chất quan trọng nhất để xây dựng nền tảng quyền lực, sao cho có thể tập trung toàn bộ thời gian và tâm trí của mình vào việc phát triển những phẩm chất đó”.

Và đây là 7 phẩm chất cá nhân quan trọng xây dựng quyền lực theo nghiên cứu của GS. Pfeffer:

1/ Tham vọng

Thành công đòi hỏi nỗ lực và chăm chỉ, cũng như lòng kiên trì, bền bỉ. Để tận dụng được nỗ lực đó, để cố gắng không trở nên vô ích, cần phải có tham vọng mãnh liệt.

Richard Daley, cố thị trưởng thành phố Chicago và được xem là một trong 10 thị trưởng giỏi nhất trong lịch sử nước Mỹ, không chạy đua tranh cử cho tới khi ông 53 tuổi. Từ khi còn trẻ, Daley đã nhận ra là ông khao khát quyền lực, và ông sẵn sàng kiên nhẫn chờ đợi cơ hội để có được điều đó. Ông đã dành ra ba chục năm âm thầm cặm cụi với công việc thường nhật của bộ máy chính trị thành phố.

Cuốn tiểu sử về Abraham Lincoln đoạt giải thưởng Pulitzer của tác giả Doris Kearns Goodwin đã nêu rõ khao khát mãnh liệt của Linlcon là một trong những đặc tính quan trọng nhất đem lại thành công cho ông trong sự nghiệp chính trị. Động lực của Linlcon đã giúp ông vượt qua hoàn cảnh nghèo khó, những thất bại chính trị ban đầu và những lời khinh thường của người khác.

Và điều gì đúng trong chính trị cũng đúng trong kinh doanh. Jill Barad, người đã vươn lên trở thành CEO của công ty đồ chơi Mattel, là người luôn có tham vọng cháy bỏng. Bà thường đeo một chiếc kẹp áo hình con ong. “Ong là loài vật lạ thường của tự nhiên. Đáng lẽ nó không thể bay được, nhưng nó lại biết bay. Mỗi lần liếc nhìn con ong trên áo, tôi lại thấy như được nhắc nhở phải tiếp tục đạt được những điều không thể”.

Cuộc sống trong cơ quan tổ chức có thể bực bội và khó chịu, làm chệch đi nỗ lực cũng như sự cố gắng của mọi người. Tham vọng – chú tâm đạt được sức ảnh hưởng – có thể giúp mọi người vượt qua được suy nghĩ muốn từ bỏ hoặc đầu hàng trước những điều khó chịu.

2/ Năng lượng

Laura Esserman, Giám đốc Trung tâm chăm sóc ngực Carol Franc Buck thuộc Đại học California – San Francisco, người đã tạo ra những thay đổi đáng kể trong ngành y tại địa phương và trên cả nước từ một vị trí rất ít quyền lực. Cô đã lấy được bằng MBA trong khi làm việc toàn thời gian và sinh con đầu lòng. Cô từng nói: “Bạn không thể thay đổi thế giới bằng cách chợp mắt”.

Frank Stanton, cố chủ tịch của CBS và là một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong giới thời sự và truyền hình, luôn làm việc điên cuồng nhiều giờ liền, kể cả cuối tuần, và thường chỉ ngủ khoảng 5 tiếng mỗi tối.

Rudy Crew, nhà lãnh đạo hệ thống trường học, là một người mắc chứng mất ngủ, thường thức giấc vào lúc 3 giờ sáng. Crew thường là người đầu tiên đến văn phòng hiệu trưởng ở thành phố New York – nơi ông vẫn thường tự pha cà phê để uống.

Hầu hết những người có quyền lực tôi biết đều có năng lượng vô biên. Đó là vì năng lượng đem lại ba lợi ích giúp xây dựng sức ảnh hưởng.

Trước tiên, năng lượng, cũng như nhiều trạng thái cảm xúc khác như giận dữ hay vui mừng, có tính lan truyền. Do đó, năng lượng truyền cảm hứng cho nỗ lực ở nhiều người hơn.

Thứ hai, năng lượng và khoảng thời gian dài tồn tại của nó đem lại lợi ích giúp công việc được hoàn thành. Nghiên cứu về tài năng hoặc thiên tài – những thành tích phi thường mà họ đạt được trong nhiều lĩnh vực – đều chỉ ra rằng “việc cần cù chuẩn bị” đóng vai trò quan trọng. Hiển nhiên, giàu năng lượng cho phép bạn dành nhiều giờ liền để làm việc chăm chỉ giúp làm chủ được vấn đề nhanh hơn.

Thứ ba, người ta thường thăng chức cho những người giàu năng lượng vì tầm quan trọng của việc có khả năng làm việc chăm chỉ và vì việc dốc hết năng lượng trong công việc là dấu hiệu cho thấy mức độ cam kết cũng như lòng trung thành với cơ quan, tổ chức.

3/ Sự tập trung

Chẳng có chuyện gì xảy ra nếu đặt một nắm cỏ khô dưới ánh mặt trời, kể cả là vào ngày trời nắng nhất. Nhưng đặt cỏ khô dưới kính lúp thì cỏ sẽ bốc cháy. Tia nắng mặt trời, khi được tập trung lại sẽ có sức mạnh hơn nhiều so với khi phân tán. Điều tương tự cũng đúng với những người đang tìm kiếm quyền lực.

Tập trung có nhiều chiều cạnh. Một là chuyên môn hóa trong một công ty hoặc một ngành công nghiệp cụ thể, đem lại hiểu biết sâu và một mạng lưới quan hệ quan trọng rộng hơn.

Từ khi còn nhỏ, Bruce Cozadd đã biết anh quan tâm tới ngành công nghiệp dược. Anh tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành khoa học ở trường Yale. Sau khi nhận bằng MBA, anh làm việc cho ALZA, một công ty dược, nhanh chóng trở thành giám đốc tài chính, và sau đó là phó chủ tịch và tổng giám đốc điều hành. Sau khi Johnson & Johnson mua lại ALZA, Cozadd làm cố vấn cho vài công ty dược, sau đó thành lập công ty dược phẩm Jazz. Anh cũng là thành viên hội đồng quản trị của hai công ty khác đều về công nghệ sinh học. Không như nhiều bạn đồng trang lứa, Cozadd chỉ gắn bó với một công ty là ALZA trong suốt 10 năm kể từ sau khi tốt nghiệp trường kinh doanh, và chỉ hoạt động trong một ngành công nghiệp trong suốt sự nghiệp. Ông lập luận rằng chính sự tập trung đó đã đem lại cho ông nhiều kiến thức hơn về ngành công nghiệp, công nghệ cũng như vấn đề quản lý của ngành, và đặc biệt là một mạng lưới quan hệ phong phú trong ngành đó so với việc có kinh nghiệm dàn trải ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Melinda làm việc cho một công ty thẻ tín dụng từ năm 2002. Cô nhấn mạnh một trong những lợi ích của việc chỉ làm ở một nơi là bạn sẽ biết nhiều người hơn trong một tổ chức, và hiểu biết sâu sắc này giúp bạn có được quyền lực lớn hơn nhiều những mối quan hệ cá nhân bền chặt mà bạn xây dựng được, và nhờ đó hiểu biết tường tận về những người mà bạn đang muốn gây ảnh hưởng. Dù gần đây người ta nhận thấy tình trạng nhảy việc ngày một gia tăng, nhưng người có thâm niên trong tổ chức vẫn thường dễ dàng đạt được vị trí có sức ảnh hưởng hơn.

Chiều cạnh thứ hai của sự tập trung là chú trọng vào một số hoạt động hoặc kỹ năng. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, để đạt được mức năng lực nổi trội đòi hỏi rất nhiều thời gian, thì theo định nghĩa, đúng là bạn có thể đạt được điều đó trong khoảng thời gian ít hơn nếu bạn biết thu hẹp phạm vi tập trung của mình.

Chiều cạnh thứ ba của sự tập trung là chú trọng vào những hoạt động quan trọng của một công việc hoặc một vị trí cụ thể nào đó – nghĩa là những hoạt động có ảnh hưởng nhất tới việc hoàn thành công việc cũng như tới suy nghĩ của người khác về bạn và hiệu quả của bạn.

4/ Hiểu biết về bản thân

Joe Beneducci là giám đốc điều hành Công ty Fireman’s Fund, công ty bảo hiểm trị giá 12 tỷ đô la thuộc sở hữu của Tập đoàn Allianz (Đức). Năm 2007, khi mới 39 tuổi, anh đã được tạp chí Insurance and Technology vinh danh là một trong những CEO giỏi nhất về công nghệ của năm. Joe quả quyết rằng thành công của anh không phải nhờ vào kiến thức học vấn, mà là nhờ đọc nhiều (anh đã đọc ít nhất một cuốn sách non-fiction (sách viết về các sự kiện, nhân vật có thật) mỗi tuần) và thường xuyên tự đánh giá bản thân một cách bài bản. Sau mỗi cuộc họp hay cuộc gặp quan trọng, anh đều ghi chú trong một quyển sổ nhỏ. Anh sẽ viết lại điều gì đã làm tốt và điều gì chưa, điều mọi người nói và làm, và kết quả của cuộc họp. Cuốn sổ đó ghi lại suy nghĩ của anh về những gì đã xảy ra để anh có thể khiến các cuộc gặp trong tương lai hiệu quả hơn. Và phương pháp rèn luyện bằng cách viết ra đó là khuyến khích suy ngẫm và khắc sâu những suy nghĩ đó hơn trong nhận thức của anh.

Tiến sĩ Modesto “Mitch” Maidique, người Mỹ gốc Cuba, Hiệu trưởng Đại học quốc tế Florida trong 23 năm, trước đó từng điều hành hai công ty và là thành viên của ngân hàng đầu tư Hambrecht & Quist. Ông đã có một sự nghiệp nổi bật trong cả giới lợi nhuận và phi lợi nhuận. Khi được hỏi thói quen lãnh đạo nào đã giúp ông thành công, câu trả lời của ông ngay lập tức là: ghi chép về các quyết định, các cuộc họp và các cuộc gặp khác, đồng thời suy ngẫm về điều ông đã làm tốt hoặc chưa tốt để từ đó có thể cải thiện các kỹ năng của bản thân.

Không có chuyện học hỏi và phát triển bản thân mà không có suy ngẫm. Anday Hargadon, giáo sư giảng dạy về kinh doanh tại Trường Đại học California – Davis, đã nhận định rằng nhiều người cứ nghĩ rằng họ có 20 năm kinh nghiệm, nhưng thực ra không phải, họ chỉ có một năm kinh nghiệm được lặp đi lặp lại 20 lần. Suy ngẫm bài bản, có cấu trúc đòi hỏi phải có thời gian. Nó cũng đòi hỏi phải biết tập trung, phải ghi chú và phải suy nghĩ về việc bản thân đang làm. Những điều này rất hữu dụng trong công cuộc xây dựng con đường tiến tới quyền lực.

5/ Tự tin

Hai thập kỷ trước, tôi đã quan sát Tiến sĩ Frances K.Conley, người phụ nữ đầu tiên giành được học hàm giáo sư về phẫu thuật thần kinh. Có lần cô đã gặp mặt các cộng sự phẫu thuật và sau đó là một bệnh nhân có khối u não ác tính. Ngay cả hiện nay, điều trị ung thư não cũng thường không thành công, và 20 năm trước, lựa chọn điều trị thậm chí còn hạn chế hơn. Với những thực tập sinh của mình, Tiến sĩ Conley đã thể hiện rằng cô cũng không biết chắc phải làm gì, và đã hỏi xem mọi người nghĩ thế nào. Nhưng khi bước vào phòng của bệnh nhân, cô lại trở thành một người hoàn toàn khác. Không phủ nhận tính nghiêm trọng của bệnh tình, cũng không giấu giếm chẩn đoán, Tiến sĩ Conley nói rành rọt, tự tin về quá trình điều trị. Sau đó, khi tôi hỏi về cách hành xử thay đổi hoàn toàn của cô, Tiến sĩ Conley đã trả lời rằng có cái gọi là hiệu ứng trấn an cũng như hiệu ứng của thái độ và tinh thần đối với quá trình điều trị, do đó, cô không muốn bệnh nhân bỏ cuộc hay trở nên bi quan. Nếu cô bộc lộ sự do dự, nghi ngại của bản thân, bệnh nhân có thể sẽ bỏ đi tìm cách điều trị ở nơi khác, từ những người hoặc cơ sở không đủ chất lượng để cung cấp dịch vụ chăm sóc tân tiến hiện đại.

Vị trí và chức danh công việc chính thức có thể đem lại sức ảnh hưởng và quyền lực. Nhưng trong nhiều tình huống, bạn sẽ phải làm việc với những người đồng trang lứa hoặc những người ngoài không biết đến địa vị chính thức của bạn. Và trong bất cứ trường hợp nào, những người quan sát cũng sẽ thử và xác định xem họ có nên nhìn nhận bạn nghiêm túc không. Do đó, bạn cần phải nắm quyền kiểm soát tình huống. Khi quyết định về mức độ ảnh hưởng và tôn kính dành cho người khác, người ta thường quan sát và lấy hành vi của người khác làm gợi ý. Vì quyền lực dễ khiến người ta cư xử tự tin hơn, nên người quan sát thường đánh đồng hành vi tự tin với việc thực sự có quyền lực. Trở nên tự tin và hiểu biết giúp bạn gây dựng được sức ảnh hưởng.

Amanda là một nhà điều hành trung tuổi, có tài, được một công ty chuyên về sản phẩm tiêu dùng lớn cử đi học bằng thạc sĩ về quản lý. Việc công ty cử cô đi học và trả lương, học phí trong suốt chương trình học một năm cho thấy họ có kỳ vọng rất lớn. Câu hỏi đặt ra là liệu cô có thể thúc đẩy được cơ hội đó hay không? Vào mùa xuân, cô bắt đầu nghĩ đến việc quay trở lại tổ chức. Cô đã thảo một bức thư điện tử để gửi cho những người tài trợ cho công ty của cô, nhưng may mắn là cô đã quyết định nhờ một người bạn, một nữ điều hành từ một công ty khác, sửa lại. Người bạn đó đã củng cố thông điệp của bức thư, nói rõ rằng Amanda khao khát vị trí quản lý cấp cao, và đang tìm kiếm con đường sự nghiệp có thể đưa cô đến vị trí đó, và khẳng định rõ ràng hơn vị trí mà cô muốn đảm nhận khi quay trở lại. Dù ban đầu ngại bức thư mà cô cho là quá tự tin, quá táo bạo, nhưng Amanda đã gửi nó đi, và ngạc nhiên nhưng vui mừng khi nhận được thư phản hồi. Các đồng nghiệp trong công ty thích cách tiếp cận tự tin cũng như cách diễn đạt về tham vọng sự nghiệp của cô. Và sao lại không chứ? Đó chính là cách những nhà điều hành cấp cao xử sự, và Amanda đã thể hiện là cô cũng giống họ.

Thể hiện sự tự tin thường là vấn đề đặc biệt đối với phụ nữ, những người vốn được xã hội xem là nhã nhặn và ít quyết đoán. Nhưng hành vi đó lại gây ra rắc rối. Nghiên cứu được tiến hành bởi nhà tâm lý học xã hội Brenda Major đã chỉ ra rằng phụ nữ làm việc lâu hơn và chăm chỉ hơn đàn ông nhưng lương lại thấp hơn, con đường sự nghiệp cũng như kỳ vọng về khoản thu nhập cao nhất của họ cũng thấp hơn đàn ông. Mục đích nghiên cứu này là cho phụ nữ thấy rằng vì họ không nghĩ mình giá trị nên họ gặp bất lợi trong việc thương thảo lương, đó chính là lý do tại sao lại có sự khác biệt về thu nhập giữa nam và nữ.

Hệ quả của việc không tự tin và quyết đoán là giống nhau với cả hai giới chứ không chỉ riêng phụ nữ, và cũng không chỉ riêng trong vấn đề tiền lương. Nếu bạn không tự tin về điều bạn muốn và điều bạn xứng đáng, bạn sẽ do dự trong việc đòi hỏi hoặc thúc đẩy, và từ đó, bạn sẽ kém thành công hơn trong vấn đề tiền bạc hoặc đạt được ảnh hưởng so với những người tự tin hơn bạn.

6/ Đồng cảm với người khác

Việc đào tạo về thương thảo thường bao gồm lời khuyên thương lượng về “lợi ích” thay vì về “vị trí”. Thông qua quá trình cả hai bên cùng nhượng bộ, cả hai bên đều có được kết quả tốt hơn, nhưng để thành công với cách tiếp cận như vậy, bạn cần phải hiểu người kia đến từ đâu. Khả năng biết đặt mình vào vị trí của người khác này cũng hữu dụng cho bạn trong việc đạt được quyền lực. Một trong những lý do thành công của Lyndon Johnson (lãnh đạo chiếm đa số phiếu của thượng nghị viện Mỹ) là sự chú ý không ngừng nghỉ tới các chi tiết của 99 người đồng nghiệp, biết ai là người muốn có văn phòng riêng, ai là người nghiện rượu, ai là người có quan hệ lăng nhăng, ai là người muốn đi công tác riêng – mọi chi tiết nhỏ nhặt giúp ông phán đoán chính xác cách mọi người sẽ bỏ phiếu, cũng như biết được cần mang lại cho mỗi thượng nghị sĩ những gì để có được sự ủng hộ của họ.

Nhà tâm lý học William Ickes của trường đại học Tesax đã nghiên cứu về sự thấu cảm. Ông nhận thấy: Người biết đồng cảm chính là người giỏi “đọc vị” suy nghĩ và cảm xúc của người khác. Tất cả đều cần được đối xử công bằng, họ đều có thể là những nhà cố vấn khéo léo nhất, nhân viên ngoại giao giỏi nhất, nhà thương thảo hiệu quả nhất, nhà chính trị đáng lựa chọn nhất, nhân viên kinh doanh năng suất nhất, nhà giáo thành công nhất và nhà trị liệu thấu hiểu nhất.

Điều đôi khi cản trở chúng ta đặt mình vào địa vị của người khác là quá tập trung vào mục tiêu cuối cùng và mục tiêu của chính bản thân, mà không quan tâm đủ tới việc kết nạp người khác về cùng phía với chúng ta, hoặc chí ít là giảm bớt khả năng chống đối của họ. Khi Laura Esserman cố gắng tạo ra những thay đổi ở trung tâm chăm sóc ngực UCSF, cô cũng đồng ý gây quỹ cho một nhóm chụp X-quang vú nhằm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ chẩn đoán này ở những khu vực nghèo đói hơn của San Francisco. Trong khi đó, khoa phẫu thuật, nơi làm việc chính của cô, lại đang rơi vào tình trạng thâm hụt, và trưởng khoa cứ thắc mắc tại sao dịch vụ chụp X-quang lại được hỗ trợ thay vì khoa phẫu thuật; giám đốc tài chính của trung tâm thì lo lắng về xếp hạng trái phiếu vì đang cần một khoản vay nợ để xây dựng trường y khoa ở khu vực Mission Bay của San Francisco; và nhiều nhà quản lý lại lo lắng về việc phải điều trị cho nhiều bệnh nhân được hỗ trợ về mặt y tế Medicaid hơn, với tỷ lệ bồi hoàn không thỏa đáng, trong bối cảnh đơn vị chẩn đoán nhanh phát hiện thấy có rất nhiều phụ nữ nghèo bị ung thư vú.

Tiên quyết tập trung vào việc cứu mạng, chữa trị cho những phụ nữ thiệt thòi, và “làm điều đúng đắn”, Esserman đã phớt lờ những lo lắng của người khác. Nhưng rồi một ngày, cô nhận ra chụp X-quang thậm chí còn không phải là phương thức chẩn đoán mà cô muốn phát triển, và cô đã đặt nỗ lực của mình vào một doanh nghiệp chỉ toàn mang lại những điều trái ngược. Vì vậy cô gọi điện cho trưởng khoa và nói rằng: “Tôi hiểu quan điểm của anh, tôi đồng tình, và tôi sẽ chịu trách nhiệm về việc này”. Trong hai tuần, cô đóng cửa dịch vụ X-quang, và hành động đơn giản đó đã nhận được sự ủng hộ từ những người mà cô cần sự giúp đỡ của họ. Điều đó cũng truyền tải một bài học quan trọng: Thay vì khiến bạn đi chệch khỏi những mục tiêu của mình, việc đặt mình vào địa vị của người khác lại là một trong những cách tốt nhất để thúc đẩy lịch trình của chính bạn.

7/ Khả năng chịu đựng xung đột

Có rất nhiều sách và một ít nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của việc bạo hành nơi công sở – quát mắng, cằn nhằn, báng bổ và tán tỉnh thỉnh thoảng vẫn xảy ra ở nơi làm việc – đối với cả người là đối tượng của bạo hành và với cả tổ chức nơi họ làm việc. Vậy tại sao hành vi này cứ tồn tại dai dẳng? Vì nó thường đặc biệt mang lại hiệu quả cho thủ phạm. Vì hầu hết mọi người đều không thích xung đột, nên họ thường tránh những tình huống khó khăn và những người khó chịu, họ thường xuyên đồng ý với các yêu cầu hoặc thường xuyên thay đổi vị trí thay vì phải trả giá đắt về mặt tình cảm vì đứng lên và thể hiện quan điểm. Nếu bạn có thể xử lý hiệu quả những tình huống xung đột và đầy căng thẳng, thì bạn đã có lợi thế hơn hầu hết mọi người.

Rahm Emanuel, trợ lý của Tổng thống Obama, và trước đây là một thành viên uy tín của Viện Dân biểu đến từ Illinois, người đã điều hành Ủy ban Chiến dịch Quốc hội của đảng Dân chủ, nổi tiếng nóng tính. “Emanuel có vẻ chỉ nóng như lửa với những đối thủ đáng gờm, nguy hiểm… chứ không bao giờ mất kiểm soát ở giữa cuộc chiến”, Ryan Lizza nhận xét. Cựu thị trưởng New York Rudolph Giuliani, được ghi nhận với rất nhiều thành tích khi còn tại vị, là một người không bao giờ lùi bước trước khó khăn: “Giuliani là một người thích tranh luận trong một thành phố toàn người thích tranh cãi về chính trị”, theo nhận định của hai nhà báo Michael Powell và Russ Buetnner của tờ New York Times, “Nhưng vượt xa những gì người tiền nhiệm, các sử gia và các chính trị gia nói, sự khó tính của ông đã đạt đến mức tàn nhẫn và trở thành mặt hạn chế trong nhiệm kỳ thị trưởng của ông”.

Một số người lầm tưởng rằng thái độ sẵn sàng đối mặt với xung đột là một nguồn sức mạnh chỉ có ở văn hóa phương Tây, với khả năng chịu đựng hành vi mang tính cá nhân cao hơn và cởi mở hơn, phản ứng ít thận trọng hơn. Nhưng tôi không thấy có mấy bằng chứng chứng minh cho quan điểm này. Ở Singapore, cả nước tiến hành các chiến dịch ca ngợi hành vi lịch sự của vị thủ tướng có thời gian phục vụ đất nước lâu dài Lý Quang Diệu, vị cha già dân tộc. Ông Lý lên nắm quyền bằng cách lật đổ người Anh đang cai trị đất nước, và thể hiện sự không lùi bước trong các cuộc chiến với các đối thủ chính trị trong nhiều năm tiếp theo.

Katsuji Kawamata, người bắt đầu làm việc ở Nissan năm 1947 sau sự nghiệp thất bại ở Ngân hàng Công nghiệp Nhạt Bản, cuối cùng đã vươn lên trở thành người đứng đầu công ty lớn mạnh về ô tô này dù không hề có kinh nghiệm gì trong ngành công nghiệp này. Con đường tiến tới quyền lực của ông trong tổ chức Nhật Bản đặc thù này đầy rẫy những khó khăn không lường trước được. Như được miêu tả trong cuốn sách The Reckoning của David Halberstam, hành vi thô thiển và lỗ mãng cua Kawamata là có mục đích: “Đó là… trò chơi quyền lực. Ông ta nói với chúng tôi – và ban đầu chúng tôi không hề nhận ra – rằng những gì khiến chúng tôi hứng thú lại không khiến ông ta hứng thú, nhưng điều khiến ông ta hứng thú nhất định sẽ khiến chúng tôi hứng thú”, một trong những người quản lý của Nissan đã nói như vậy sau nhiều năm sau đó”.

Trí thông minh

Như chúng ta đã thấy, thành tích trong công việc không liên quan lắm tới khả năng đạt được quyền lực. Thế còn trí thông minh thì sao? Có lẽ, không có đặc tính nào của con người được nghiên cứu nhiều như trí thông minh.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng trí thông minh là chỉ báo tốt nhất về biểu hiện trong công việc. Tuy nhiên, trí thông minh lại thường được đánh giá quá cao, được xem là một đặc tính giúp con người đạt được quyền lực. Đó là vì trí thông minh hiếm khi chiếm quá 20% sự thay đổi về biểu hiện trong công việc trong bất cứ sự kiện nào, và mối quan hệ giữa biểu hiện và việc đạt được quyền lực tương đối mờ nhạt.

Một phân tích tổng hợp kiểm tra 85 bộ dữ liệu từ nhiều nước khác nhau đã đưa ra kết luận là tương quan giữa trí thông minh và thu nhập là 2, và dù điều này mang tính chất thống kê, nó cũng cho thấy là chỉ có khoảng 4% khác biệt về thu nhập được giải thích bằng khác biệt về trí thông minh.

Hơn nữa, trí thông minh, đặc biệt là trí thông minh vượt trội một mức độ nào đó có thể dẫn tới những hành vi khiến khả năng giành được và nắm giữ sức ảnh hưởng giảm đi. Những người đặc biệt thông minh cho rằng họ có thể tự mình làm mọi việc, và làm tốt hơn tất cả những người khác. Hệ quả là họ có thể thất bại trong việc hòa hợp với người khác, khiến đồng minh tiềm năng của họ mù mờ về kế hoạch và suy nghĩ của họ. Việc được công nhận là đặc biệt thông minh có thể dẫn đến tự tin thái quá, thậm chí là kiêu căng – điều đó có thể khiến bạn đánh mất quyền lực. Và người thông minh có thể nghĩ rằng vì trí thông minh tuyệt vời của mình, họ có thể không cần phải nhạy cảm với cảm xúc và nhu cầu của người khác. Nhiều người mà tôi cảm thấy khó có thể đặt mình vào vị trí của người khác thường là người quá thông minh, đến nỗi không hiểu tại sao người khác lại không có được sự thông minh như mình. Cuối cùng, thông minh có thể trở nên đáng sợ. Và dù sự đáng sợ đó có thể hiệu quả trong chốc lát, nhưng nó không phải là chiến lược đem lại lòng trung thành bền lâu.

Robert McNamara – Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, người vẫn được miêu tả là thông minh, đã nói với nhà sản xuất phim tài liệu Errol Morris trong bộ phim The Fog of war (Màn sương chiến tranh) rằng sai lầm lớn nhất là đã không nhìn nhận mọi việc từ góc độ của người Bắc Việt Nam. Sự sụp đổ của Enron một lần là do một số người cho rằng họ thông minh tới mức có thể phỉ báng, gièm pha bất cứ người nào nghi ngờ cách tiếp cận của họ, và do đó không còn quan điểm nào có thể tồn tại được trong nội bộ công ty. Vì vậy, dù thông minh giúp gây dựng danh tiếng nhưng khi thể hiện nó trong công việc, nó thường là mầm mống thất bại vì nó đem lại cảm giác tự tin thái quá và kém nhạy cảm.

Một khi đã quyết tâm phát triển các đặc tính có thể giúp bạn tạo được sức ảnh hưởng, nhiệm vụ tiếp theo của bạn là phải xác định được phải vận dụng chúng vào đâu.

Người thông minh khó thành doanh nhân giỏi?

Có thể bạn cho rằng người thông minh, nhiệt huyết và tài năng ắt hẳn phù hợp vai trò doanh nhân, nhưng đây nhiều khi lại chính là điểm yếu của họ.

Nguyên nhân đầu tiên là tâm lý “mình làm mọi việc tốt hơn người khác”. Nếu đã biết rõ quy tắc 80/20 (80% công việc được hoàn thành bởi 20% thành viên), bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra khi làm nhóm? Những người thông minh và tài năng nhất sẽ lựa chọn làm phần việc nhiều nhất. Họ không muốn mạo hiểm với điểm số của mình bằng việc chia đều hay tin rằng những người thường thường xuyên vắng mặt hay ngủ gật trong lớp có thể làm tốt phần của họ.

Những người thông minh nhất sẽ làm mọi thứ tốt hơn so với hầu hết những người còn lại. Họ viết tốt hơn, lên kế hoạch tốt hơn và suy luận cũng tốt hơn. Tuy nhiên, đến khi bắt tay vào kinh doanh, họ lại chẳng làm được gì.

Một ngày chỉ có 24 tiếng và con người cần phải ăn, ngủ, tắm, làm một số việc khác. Vì vậy, nếu mỗi ngày người thông minh cố gắng tự làm hết tất cả các công việc, vì không chịu được cảnh người khác làm kém hơn mình, anh ta sẽ bị mắc kẹt với một điều duy nhất – công việc và kết cục là không thể phát triển hơn được.

Một điều nghe khá buồn cười là trên thực tế, những người vốn được coi là chểnh mảng lại phù hợp với công việc kinh doanh hơn là người thông minh. Đó là bởi họ phát hiện ra những người thông minh sẽ làm thay công việc của họ. Họ biết cách phân quyền và đôi khi, còn biết cách khiến người khác làm thay những điều mà họ không muốn làm.

Trong điều kiện lý tưởng, người thông minh có thể truyền đạt lại tài năng của mình cho người khác. Tuy nhiên, vì luôn tự làm mọi việc một mình, họ không học được những kỹ năng cần thiết nhằm giúp việc kinh doanh trở nên phát đạt, như quy trình tự động hay phân công công việc. Là người thông minh, lẽ ra bạn có thể sử dụng trí tuệ của mình tóm tắt lại kiến thức theo cách dễ học hỏi nhất cho mọi người.

Người tài năng và thông minh thường rất tinh tế khi nhận ra những điều bất thường hay phức tạp. Họ không thích tuân theo quy tắc giữ cho mọi thứ đơn giản và bình thường – điều vốn rất cần thiết nếu muốn kinh doanh thành công.

Nếu bạn nghĩ tới dây chuyền lắp ráp tại một nhà máy sản xuất nổi tiếng hay sự hiện diện toàn cầu của McDonald’s, bạn có thể cho rằng chúng rất phức tạp. Nhưng trên thực tế, đó là sự tổng hợp của hàng loạt công việc vô cùng đơn giản. Mỗi công việc đều được chia thành các bước dễ làm theo. Các công nhân thực hiện lặp đi lặp lại những nhiệm vụ đã được xác định cụ thể. Đầu bếp, thu ngân hay nhân viên giao hàng ở McDonald’s cũng vậy. Họ không phải học quá nhiều, do mọi thứ đều đã được chuẩn hóa.

Đại đa số nhân viên của các công ty lớn và nổi tiếng trên thế giới đều không phải là những người thông minh nhất. Họ là những nhân viên bình thường, trung bình hoặc thậm chí là khá ngờ nghệch. Những công ty này chỉ có một số cá nhân đủ thông minh để chuẩn hóa quy trình cũng như phân chia công việc một cách hợp lý.

Vì vậy, thông minh hay tài năng cũng không giúp bạn được nhiều trừ khi bạn tận dụng chúng nhằm tìm ra cách tối giản hóa các nhiệm vụ phải làm để việc kinh doanh trở nên trơn tru hơn. Điều này không dễ dàng, bởi nó đi ngược lại những điều bạn đã từng làm và đối lập với những gì bạn đã từng được dạy trước đây. Tuy nhiên, việc làm trên là cần thiết nếu muốn kinh doanh thành công và nó cũng lý giải được vì sao người thông minh chưa chắc sẽ kinh doanh giỏi.

Một vấn đề khác là việc người thông minh thường có quá nhiều thứ để mất. Bạn càng giỏi thì lại càng có nhiều sự lựa chọn. Bạn có khả năng kiếm được nhiều tiền ở nhiều lĩnh vực khác nhau cũng như có cơ hội thăng tiến nghề nghiệp. Điều nay có nghĩa rằng khi bắt đầu kinh doanh, bạn có nhiều rủi ro hơn những người ít cơ hội việc làm và tiền bạc. Điều này có nghĩa là bạn cần phải có một cơ hội kinh doanh mang lại giá trị lớn hơn rất nhiều, sao cho tương xứng với công sức mà bạn đã bỏ ra.

Bởi vì có quá nhiều thứ để mất cùng với rất nhiều sự lựa chọn có sẵn, cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi rất nhiều người xuất sắc nhất khi còn đi học lại chỉ dừng ở việc làm nhân viên cho các tập đoàn lớn, còn những học sinh chỉ ở mức trung bình thì lại đạt được thành công riêng trong việc kinh doanh.