Category Archives: News

Foxconn chi hàng trăm triệu USD để hồi sinh Nokia

Cuộc hồi sinh đầy ngoạn mục của Nokia đã nhận được sự đón nhận nồng nhiệt từ phía người dùng, tạo sự hứng khởi tại một số thị trường, ẵm nhiều giải thưởng danh giá và đưa thương hiệu vốn rất được yêu thích trên toàn cầu này có doanh số đáng mơ ước trong năm 2018.

Vấn đề duy nhất mà người ta để ý thấy trong lần trỗi dậy này là những smartphone và điện thoại cơ bản (feature phone) mang thương hiệu Nokia đã và đang tiêu tốn những chủ sở hữu mới của thương hiệu này một lượng tiền đáng ngạc nhiên, ngay cả khi họ tạo được doanh số bán ra cực kỳ ấn tượng.

Tất nhiên, sẽ thật là phi thực tế nếu nghĩ chỉ cần mua cái tên Nokia và gắn nó vào hàng tá điện thoại mới là đã có thể trồng được một cái cây với lá làm từ tiền. Nhưng những số liệu thực tế lại tàn nhẫn hơn nhiều so với dự đoán.

Trước tiên, nên biết rằng, đằng sau sự hồi sinh của thương hiệu Nokia là hai công ty: HMD Global Oyj – một công ty Phần Lan sở hữu các nhân viên kỳ cựu trước đây của Nokia, và FIH Mobile (một phân nhánh của Foxconn) – sở hữu mảng sản xuất điện thoại cơ bản của Nokia. FIH cũng sở hữu một phần nhỏ trong HMD, và cùng nhau, liên minh này đã đổ một lượng vốn đáng kể để hồi sinh thương hiệu Nokia vĩ đại ngày xưa.

Biểu đồ doanh thu và lợi nhuận thuần của FIH trong năm 2017,

Trong năm 2017, FIH đạt được doanh thu kỷ lục, nhưng xét về lợi nhuận, đây là năm thấp kỷ lục của hãng sản xuất smartphone này. Tại châu Âu, doanh thu của FIH tăng mạnh, gần gấp 10 lần năm 2016, đạt mức gần 1,7 tỷ USD. Trong khi đó, lợi nhuận năm 2017 giảm đến 160 triệu USD so với năm 2016, một con số không hề nhỏ. Cần phải nói rõ rằng mọi hoạt động của FIH tại châu Âu đều liên quan đến Nokia!

Hãng tin Bloomberg phỏng đoán rằng tại châu Á, FIH cũng hứng chịu tình hình thất thu tương tự, nhưng ít ra còn được gỡ gạc ít nhiều khi tại khu vực này, FIH còn đảm nhiệm việc lắp ráp smartphone cho Xiaomi và Huawei – hai hãng đã có một năm bùng nổ về mặt doanh số (và smartphone của họ trớ trêu thay cũng là đối thủ cạnh tranh của Nokia).

Những số liệu phức tạp về doanh thu và lợi nhuận thuần của FIH Mobile cho thấy sự đắt đỏ của thương hiệu Nokia. Như đã nói ở trên, doanh số bán ra của các điện thoại Nokia do HMD và FIH sản xuất không hề kém: trong năm 2017, đã có đến 8,7 triệu smartphone Nokia được bán ra; số lượng điện thoại cơ bản còn lớn hơn, lên đến 59,2 triệu máy, trong đó chỉ riêng quý 4/2017 đã là 20,7 triệu máy.

Biểu đồ riêng tại khu vực châu Âu, sau khi FIH hợp tác cùng HMD sản xuất điện thoại Nokia.

Vậy chúng ta rút ra được gì từ cuộc hồi sinh tốn kém của Nokia? Rõ ràng việc mua lại quyền sở hữu một thương hiệu nổi tiếng cũng chẳng đảm bảo được điều gì. Hồi sinh một thương hiệu là một việc cực kỳ khó khăn và đắt đỏ. Dù lịch sử thương hiệu và khả năng nhận diện của người dùng có thể giúp sản phẩm của bạn được chú ý hơn bởi giới truyền thông, nhưng nó không đảm bảo doanh số bán ra của sản phẩm đó. Cũng cần nói rằng, chúng ta chưa thấy lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của FIH và HMD, không có nghĩa chúng ta sẽ vĩnh viễn không thấy.

Hãy hỏi Microsoft về kết quả của việc hồi sinh thương hiệu Nokia – lần hồi sinh đầu tiên của thương hiệu Phần Lan này. Đó là vào năm 2013, khi Microsoft bỏ ra 7,2 tỷ USD để có thể tự tay mình phát triển dòng sản phẩm Lumia lúc đó đang cực kỳ đắt hàng, cùng một số dòng feature phone khác như Asha chẳng hạn.

Người ta ước tính rằng Microsoft cuối cùng đã lỗ đến 8 tỷ USD, và rồi phải chấp nhận từ bỏ Windows Phone (dù vậy, hãng cũng thu được một số tiền rất lớn từ việc bán bằng sáng chế cho Samsung). Thương hiệu Nokia cũng chính là chất xúc tác khiến Steve Ballmer – CEO Microsoft lúc đó – mất chức, và sự lên ngôi của CEO hiện tại Satya Nadella – người đã lèo lái con thuyền Microsoft đứng vững giữa sóng dữ (hay nói rằng ông đã giúp Microsoft… quay đầu 180 độ về phía bờ thì cũng không sai).

Chúng ta cũng đang chứng kiến BlackBerry trải qua một quá trình tương tự, khi công ty BlackBerry nguyên gốc ngừng sản xuất các thiết bị của chính mình và chuyển sang làm phần mềm.

Nokia X2 – smartphone Android với giao diện không khác gì Windows Phone.

Hiện các thiết bị BlackBerry đang được sản xuất bởi nhà sản xuất Trung Quốc TCL, và số lượng máy bán ra trong năm 2017 vô cùng nghèo nàn: chưa đến 1 triệu. So với năm 2013, chỉ trong Quý 2 đã có đến 6,8 triệu máy được bán ra, và bạn có thể thấy cạnh tranh với những ông lớn khó khăn đến chừng nào.

Nokia được đón nhận nồng nhiệt tại thị trường Ấn Độ, cùng với châu Âu – nơi doanh số smartphone lẫn điện thoại cơ bản đều rất khả quan. Bước tiếp theo của Nokia, với vũ khí là 5 mẫu điện thoại đã được giới thiệu tại MWC 2018, sẽ là mang mẫu flagship Nokia 8 Sirocco, mẫu tầm trung Nokia 6, và mẫu “quả chuối” Nokia 8110 4G vào thị trường Mỹ. Nokia sẽ không hợp tác với các nhà mạng – một bước đi có khả năng khiến doanh số bán ra của các thiết bị bị ảnh hưởng nghiêm trọng, trong bối cảnh chiếc Nokia 6 sẽ chính thức được bán ra vào tháng 5 tới. Đó sẽ là một sự thử nghiệm đắt giá, nguy cơ cao, trên một thị trường smartphone phân khúc tầm trung vốn đã quá đông đúc, và lại không được nhà mạng hỗ trợ nhằm tăng doanh số. Chưa kể, liệu có ai đảm bảo rằng người Mỹ sẽ chào đón Nokia như người châu Âu?

Sự trở lại của Nokia, ngạc nhiên thay, đang khiến Foxconn thất thoát một lượng kha khá tiền bạc dù đã đạt được những thành công nhất định. Nhưng với Foxconn đằng sau lèo lái, HMD sẽ cứ vui khi thấy doanh thu tăng trước, còn lợi nhuận, để sau cũng được!

Sau Alibaba, đến lượt Amazon đổ bộ vào Việt Nam

Giống như Alibaba, Amazon sẽ đổ bộ vào thị trường Việt Nam bằng các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ bán hàng, song song với việc xuất khẩu qua hệ sinh thái của Amazon.

Sau Alibaba, đến lượt Amazon đổ bộ vào Việt Nam

Amazon sắp đổ bộ vào thị trường Việt Nam. Ảnh: Ayola TV

Theo thông tin từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM), tại Diễn đàn Toàn cảnh Thương mại điện tử Việt Nam VOBF 2018 diễn ra vào ngày 14/3 tới đây, Amazon sẽ khởi động một chương trình hợp tác cùng Hiệp hội để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam có thể bán hàng, xuất khẩu qua hệ sinh thái của Amazon.

Sau những thăm dò ban đầu, đây sẽ là động thái đầu tiên của Amazon trên thị trường thương mại điện tử Việt Nam.  Và, có vẻ như Amazon đang đi theo cách của Alibaba trước đó – hợp tác với các đại diện Việt Nam để khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu qua kênh của họ.

Thông tin đại gia thương mại điện tử Mỹ đổ bộ thị trường Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ hồi cuối năm ngoái. Theo chia sẻ từ đại diện VECOM, sau buổi làm việc cùng đại diện của Amazon, doanh nghiệp Mỹ này bày tỏ muốn hỗ trợ khách hàng Việt mua, bán hàng trên Amazon.

Đặc biệt, họ muốn hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa xuất khẩu qua hệ sinh thái của Amazon.

Theo đánh giá của VECOM, tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử của Việt Nam năm 2017 đạt trên 25% và tốc độ này có thể được duy trì trong giai đoạn 2018 – 2020.

QR Code – trợ thủ đắc lực của thương mại điện tử

Các công ty giao nhận thương mại điện tử ở Việt Nam ủng hộ sự phổ biến của hình thức thanh toán QR Code.

Lacoste thay logo cá sấu bằng sao la Việt Nam

Vừa qua, hình ảnh sao la Việt Nam đã bất ngờ xuất hiện trên chiếc áo polo của Lacoste

Những ẩn số phía sau báo cáo tài chính ngân hàng

Các doanh nghiệp đang bước vào giai đoạn cuối công bố báo cáo tài chính năm 2017, trong đó ngân hàng nổi lên như là ngành có kết quả kinh doanh tăng trưởng nổi bật và tỷ lệ nợ xấu giảm về mức lý tưởng.

Những ẩn số phía sau báo cáo tài chính ngân hàng

Ảnh: Quý Hòa

Tuy nhiên để đánh giá thực chất hoạt động của một ngân hàng thì không chỉ nhìn vào con số lợi nhuận cũng như tỷ lệ nợ xấu được công bố trên báo cáo.

Thông thường nhà đầu tư khi đọc báo cáo tài chính thường chỉ quan tâm đến bảng cân đối kế toán và kết quả kinh doanh, tuy nhiên còn 2 báo cáo rất quan trọng mà ít nhà đầu tư nào chịu xem kỹ hoặc chưa hiểu rõ là bảng lưu chuyển tiền tệ và bảng thuyết minh báo cáo tài chính.

Cần biết rằng bảng lưu chuyển tiền tệ ghi nhận dòng tiền thực ra, thực vào của một doanh nghiệp, do đó sẽ phản ánh thực chất hiệu quả hoạt động của tổ chức. Cụ thể, nếu khoản mục thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự trên bảng lưu chuyển tiền tệ thấp hơn nhiều so với thu nhập trên báo cáo kết quả kinh doanh, cho thấy khả năng ngân hàng đang ghi nhận thu nhập ảo vì thực tế chưa thu được lãi từ khách hàng.

Giả sử trong năm, ngân hàng dự thu lãi từ tín dụng đến 10.000 tỷ đồng, nhưng dòng tiền thực của thu lãi trên bảng lưu chuyển tiền tệ chỉ có 9.000 tỷ, như vậy 1.000 tỷ thực tế vẫn chưa thu được nhưng vẫn được ghi nhận vào thu nhập để tính toán lợi nhuận, trong khi đây là khoản có thể gặp rủi ro không thu được, hoặc ít nhất cũng cho thấy ngân hàng đang bị chiếm dụng vốn và tỷ lệ lãi thực thu ở mức thấp nên hiệu quả kinh doanh không cao.

Cũng có trường hợp thu nhập lãi trên bảng lưu chuyển tiền tệ cao hơn so với trên kết quả kinh doanh, điều này được giải thích là trong năm, ngân hàng có thể đã thu được những khoản lãi quá hạn hoặc những khoản lãi đã thoái thu trước đây, do đó lãi thực thu cao hơn nhiều so với lãi dự thu từ tín dụng.

Tương tự, có thể nhìn vào khoản mục lãi và phí phải thu trên bảng cân đối kế toán để đánh giá hiệu quả thu lãi của tổ chức tín dụng. Nếu con số này quá lớn so với quy mô dư nợ hiện tại cho thấy hiệu quả thu lãi của ngân hàng không tốt. Có thể nhiều khoản lãi dự thu đã được ghi nhận và hạch toán vào thu nhập và lợi nhuận của những năm trước, tuy nhiên thực tế cho đến nay vẫn chưa thu được và những khoản này nếu xử lý bằng cách thoái thu có thể ảnh hưởng mạnh đến kết quả kinh doanh trong năm.

Đây là lý do vì sao trước đây có luận điểm cho rằng ngân hàng đang ăn mòn vào lợi nhuận trong tương lai. Một ngân hàng hoạt động bình thường thì tỷ lệ các khoản lãi và phí phải thu trên dư nợ bình quân chỉ ở mức 2 – 3%, nếu trên 5% là cần chú ý và nếu trên 10% là rủi ro cao.

Theo quy định của Bộ Tài chính, sau 6 tháng lãi dự thu nếu chưa thu được hoặc khi chuyển nợ quá hạn thì phải thoái ra, tuy nhiên thực tế là nhiều tổ chức tín dụng vẫn chưa chuyển đúng nợ quá hạn và cũng không muốn thoái thu lãi do lo ngại ảnh hưởng đến kết quả lợi nhuận.

Về nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu thì cần đọc thuyết minh báo cáo tài chính để biết chi tiết từng nhóm nợ, trong đó nếu nợ nhóm 5 cao là cần đặc biệt chú ý, vì nợ nhóm 5 theo quy định hiện tại sẽ trích lập chi phí dự phòng đủ 100%. Tuy nhiên, nợ xấu trong chất lượng nợ vay có thể vẫn chưa phản ánh đầy đủ chất lượng tín dụng thực tế của đơn vị, vì có thể đơn vị vẫn chưa chuyển nhóm theo đúng quy định. Các khoản vay đã được tái cơ cấu có thể chưa thể hiện đúng nhóm, trong khi đây là những khoản cũng có rủi ro cao.

Nhà đầu tư cũng cần nhìn vào lượng trái phiếu đặc biệt của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) để tính toán chất lượng tín dụng của đơn vị. Nếu trái phiếu đạc biệt của VAMC cao đồng nghĩa với đơn vị đã bán nợ khá lớn cho VAMC. Thông trường giá trị trái phiếu có thể bằng 90 – 95% giá trị nợ gốc bán.

Đọc thuyết minh cũng cho thấy các khoản nợ khoanh đang chờ xử lý nếu có của tổ chức tín dụng. Thực tế vẫn còn một số ngân hàng đang có những khoản vay đối với tập đoàn nhà nước trước đây như Vinashin hay Vinalines đang được khoanh lại chờ xử lý theo sự cho phép của Chính phủ.

Các khoản mục cam kết ngoại bảng cũng cần được chú ý, nhất là cam kết bảo lãnh vay vốn và cam kết trong nghiệp vụ thư tín dụng. Nhiều khoản bảo lãnh của ngân hàng cho khách hàng dù không thu được theo đúng hạn nhưng vẫn chưa chuyển sang cho vay bắt buộc vì lo ngại phải chuyển thành nợ xấu và trích lập dự phòng, làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Trong thuyết minh phải giải thích rõ chất lượng của những khoản cam kết ngoại bảng này.

Khoản phải thu trên cân đối kế toán cũng là khoản mục cần được lưu tâm vì nhiều ngân hàng có số dư rất lớn do dùng để che giấu nhiều khoản mục có khả năng mất mát hoặc thậm chí là các khoản nợ xấu. Mục tài sản có khác thường là các khoản ủy thác đầu tư, nghiệp vụ repo (nghiệp vụ phái sinh từ các nghiệp vụ cho vay có đảm bảo hay ủy thác đầu tư), tài sản cấn trừ nợ nhưng chưa sang tên cho ngân hàng. Nghiệp vụ repo thực chất cũng là cho vay và do đó cũng có thể gặp phải những rủi ro tín dụng.