Tag Archives: Amazon

Amazon 4-Star, cửa hàng chỉ bán đồ “4 sao” của Amazon có gì lạ?

Cửa hàng bán lẻ mới nhất của Amazon chỉ bán những món đồ được đánh giá 4 sao trở lên trên Amazon.com.

Amazon vừa mở thêm cửa hàng bán lẻ mới nhưng độc đáo ở chỗ chỉ bán các món đồ được khách hàng đánh giá tốt nhất, bao gồm cả các hàng hóa không mang thương hiệu Amazon. Để có mặt trong cửa hàng này, chúng nhất thiết phải là “cực phẩm”, được xếp hạng 4 sao trở lên hay đang là xu hướng trên Amazon.com.

Cửa hàng có tên Amazon 4-Star, được mở tại khu SoHo thời thượng của New York, Mỹ hôm 27/9. Bên trong không gian rộng hơn 370m2, khu vực Most-Wished-For dành cho các sản phẩm thường được mọi người cho vào wishlist Amazon, chẳng hạn máy ảnh chụp lấy ngay Fujifilm màu xanh nhạt. Khu vực Trending Around NYC bày bán các sản phẩm phổ biến trong thành phố.

Khu vực đồ chơi mới và đang “hot”.

Giống với các cửa hàng sách khác của Amazon, 4-Star trưng bày các thẻ đánh giá của khách hàng khắp nơi cùng nhận xét của họ về các sản phẩm khác nhau. Amazon cho biết họ có quy trình để bảo đảm các nhận xét này là thực chất.

Giá bán không cố định mà thay đổi theo giá trên Amazon.com. Một số sẽ rẻ hơn nếu khách có thẻ Amazon Prime (phí 119 USD/năm), đi kèm các ưu đãi khác như miễn phí giao hàng 2 ngày.

Tấm thẻ ghi đánh giá của khách hàng về sản phẩm trên Amazon.com.

Tất nhiên, 4-Star bán nhiều thiết bị của Amazon như dòng loa thông minh Echo, Fire TV. Với việc cho mọi người dùng thử các sản phẩm tích hợp Alexa, Amazon hi vọng có thể thúc đẩy danh mục nhà thông minh. Các sản phẩm khác được bán bao gồm đồ chơi, sách, thiết bị nhà bếp, đồ điện tử, game. Hàng hóa mới được bổ sung mỗi tuần.

Amazon 4-Star rộng hơn 370m2.

Những người ghé thăm cửa hàng vào ngày khai trương tỏ ra hết sức ấn tượng trước concept này của Amazon. Xếp hạng trung bình của tất cả sản phẩm trong Amazon 4-Star là 4,4 sao, tổng cộng các mặt hàng được bán có hơn 1,8 triệu đánh giá 5 sao từ người mua.

Amazon 4-Star đánh dấu nỗ lực của gã khổng lồ thương mại điện tử trong lĩnh vực bán lẻ truyền thống. Đầu tháng này, công ty tiết lộ sẽ mở rộng chuỗi cửa hàng tiện lợi không thu ngân tại New York. Amazon đang có 3 cửa hàng Amazon Go tại Seattle cũng như 18 cửa hàng sách khác khắp nước Mỹ.

Amazon và câu chuyện sáng tạo

Sáng tạo, cải tiến là xương sống của Amazon; kiên trì theo đuổi tầm nhìn đã vạch ra dù đôi khi bị người ngoài hiểu nhầm chính là những thứ giúp Amazon luôn mới mẻ, không bị bỏ lại phía sau, và đạt kỳ tích hiếm có: doanh nghiệp trị giá ngàn tỷ USD.

Amazon bán những mẫu máy đọc sách Kindle không lợi nhuận. Trước đó, từ công ty bán sách chuyển sang bán hàng đa lĩnh vực, nhiều người đã tự hỏi làm sao có thể bán quần áo trong một hiệu sách? Đó là những điều không phải ai cũng hiểu được trên con đường kinh doanh của Amazon.

“Bạn phải sẵn sàng bị hiểu lầm trong một thời gian dài”, Tiến sĩ Werner Vogles – Giám đốc công nghệ, Phó chủ tịch Amazon.com – nói như vậy trước hàng trăm doanh nghiệp Việt Nam hôm 18/9.

Amazon.com thành lập năm 1994, niêm yết trên sàn chứng khoán Mỹ năm 1997, đến năm 2001 công ty mới có khoản lợi nhuận đầu tiên. Tháng 9 năm nay, Amazon trở thành công ty đại chúng thứ hai trên thế giới, sau Apple, đạt được giá trị thị trường 1 ngàn tỷ USD. Amazon cũng là nhà bán lẻ online lớn nhất thế giới xét về doanh thu.

Sáng tạo nằm trong DNA của công ty

Để đạt được những điều đó, Amazon đã không ngừng sáng tạo ra sản phẩm, công nghệ, dịch vụ mới. “Sáng tạo nên nằm trong DNA của các bạn”, người phụ trách việc thúc đẩy đổi mới công nghệ tại Amazon.com nói, ông đồng thời cho rằng phải chịu bị hiểu lầm.

Tiến sĩ Werner Vogles – Giám đốc công nghệ, Phó chủ tịch Amazon.com trên sân khấu Transformation Day. Ảnh: H.Đ.

Chẳng hạn, năm 2007, Amazon bán máy đọc sách Kindle với giá gần như không lợi nhuận. Nhiều người không hiểu được việc này nhưng theo ông Werner, mục đích của Amazon chính là bán sách điện tử. Phải có một thiết bị đọc sách hoàn hảo thì mới kích thích người mua mua sách điện tử để đọc.

Thời điểm đó, các máy tính bảng chủ yếu phục vụ mục đích lướt web, giải trí, và công việc, không có một thiết bị chuyên dụng nào cho đọc sách. Do đó, Amazon đã tạo ra một thiết bị chỉ phục vụ duy nhất mục đích đọc sách của người dùng, từ đó thúc đẩy doanh số bán ebook của công ty.

Sau khi IPO năm 2007, một năm sau Amazon bắt đầu bán những thứ khác ngoài sách. Ai sẽ mua quần áo, mắm muối ở một hiệu sách online? “Nhưng dần dần người ta sẽ hiểu”, Tiến sĩ Werner nói.

Trong ba yếu tố Sáng tạo, Công ty, Công nghệ, ông Werner cho biết Amazon đặt sáng tạo lên đầu trong việc thúc đẩy công ty phát triển.

Tuy vậy, sáng tạo không bao giờ là công việc dễ dàng và dễ được chấp nhận, do đó phải cam kết với việc sáng tạo của mình. Dù bị hiểu lầm cũng phải cam kết với công việc sáng tạo và tầm nhìn của công ty.

“Phải cực kỳ kiên định với mục tiêu nhưng cần linh hoạt khi triển khai chi tiết”, ông Werner nói tại sự kiện Transformation Day do Amazon Web Services (AWS) tổ chức.

Tiến sĩ Werner Vogles. Ảnh: H.Đ.

Amazon từ một website bán sách bình thường, nay phát triển lên thành tập đoàn bán lẻ đa ngành nghề. Công ty cải tiến không ngừng nghỉ hàng ngày, thay nhân viên bốc dỡ bằng rô bốt, bình thường nhân viên kho phải tìm đến kệ hàng thì nay xe rô bốt chở hàng tự chạy đến nhân viên, giao hàng bằng máy bay không người lái, rồi mở siêu thị Amazon Go – siêu thị không có nhân viên bán hàng lẫn thu ngân, thiết bị nhận lệnh giọng nói Amazon Echo, máy đọc sách Kindle,… Tất cả nhờ sáng tạo, cải tiến và tiếp tục cải tiến.

Nguyên tắc hai chiếc bánh pizza

Sau yếu tố sáng tạo là Công ty. Tại Amazon tồn tại một nguyên tắc được biết đến rộng rãi là nguyên tắc hai bánh pizza. Theo đó, mỗi đội nhóm tối đa vài chục người, làm sao để chỉ mua hai chiếc pizza thì đủ ăn cho cả nhóm.

Việc mỗi nhóm làm việc có ít người khiến ai cũng có thể đóng góp ý tưởng, ai cũng có thể biết tường tận công việc của nhau, các phát kiến vì thế sẽ có ảnh hưởng nhanh hơn.

Ngoài ra, mỗi nhóm đều có khả năng ra quyết định độc lập, không phụ thuộc phòng ban nào khác. Chẳng hạn nhóm bán sách có chỉ tiêu riêng và có quyền quyết định trong phạm vi của nhóm, nhóm bán giày cũng có mục tiêu cụ thể và các nhóm như vậy tự quyết định trong hầu hết mọi việc, hầu như không có lớp quản lý trung gian.

Sau cùng mới là yếu tố công nghệ. “Nếu một sản phẩm có công nghệ tuyệt đỉnh nhưng không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, không có thị trường thì cũng vô dụng”, Tiến sĩ Werner phát biểu. Đó là lý do các yếu tố sáng tạo, làm việc đội nhóm cần được triển khai trước đó. Phải có bản mô tả sản phẩm chi tiết, tự đặt bảng câu hỏi và trả lời cho sản phẩm,… trước khi bắt tay vào phát triển sản phẩm.

Một đội nhóm phải nhỏ để 2 bánh pizza là đủ ăn cho mọi người. Ảnh: Pexels.

Phá vỡ rào cản, chấp nhận sai lầm

Về công nghệ, các đội nhóm cần có không gian sáng tạo mở hoàn toàn, không có một giới hạn nào. Chẳng hạn, Amazon cho ra mắt Kindle Direct Publishing, một dịch vụ giúp người viết có thể tự xuất bản và bán tác phẩm của mình trên Amazon Kindle. Trong khi với phương thức xuất bản truyền thống, người viết phải đi tìm nhà xuất bản, được đồng ý mới có thể in và phát hành ra công chúng. Cách tự xuất bản sản phẩm trên Kindle phá vỡ các nguyên tắc và rào cản truyền thống.

Transformation Day nói về nhu cầu bức thiết của việc chuyển đổi số của doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. AWS, đơn vị chủ trì sự kiện, là công ty con của Amazon, mang về lợi nhuận nhiều nhất cho cả tập đoàn, và là công ty cung cấp dịch vụ đám mây chiếm thị phần lớn nhất thế giới.

Trong thời đại Internet hiện nay, tất cả doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều cần chuyển đổi để phát triển. Trong đó, các dịch vụ trên nền tảng đám mây không thể thiếu.

Facebook, Spotify, Airbnb, Grab,… là những công ty đang tạo ra những ngành dịch vụ mới hoàn toàn trên toàn cầu, và đều không phải là những công ty lâu đời. Xương sống của những công ty này chính là đám mây, thiếu các dịch vụ và giải pháp về đám mây thì các công ty này không thể hoạt động.

“Amazon đều thử và sai, đồng thời học từ các sai lầm của công ty. Chúng tôi thử nhiều và sai nhiều, không thể đợi đến khi mọi thứ hoàn hảo 100% mới thực hiện được, vì khi đó đối thủ đã đi xa và bạn sẽ bị tụt hậu”, Phó chủ tịch công ty nghìn tỷ USD chia sẻ.

Dù vậy, theo ông Werner, phát triển nhanh nhưng cần phải tỉnh táo nhìn ra các sai lầm. Những sai lầm nào trả giá ít thì có thể thử, đồng thời giảm bớt chi phí trong những lần sai. Chỉ như vậy mới tìm ra được dịch vụ, sản phẩm đúng nhất.

Doanh nghiệp từ khắp nơi trên thế giới tham dự sự kiện về đổi mới do AWS tổ chức tại Mỹ. Ảnh: H.Đ.

Mọi công ty đều có cơ hội như nhau thời Internet, kinh doanh không biên giới

Ông Werner cho rằng về phương diện Internet vật lý, các công ty nhỏ và lớn hiện nay đều có cơ hội như nhau, điều mà trước đây chưa từng có. Với việc cung cấp dịch vụ đám mây theo thời gian sử dụng, chỉ trả tiền cho những thứ mình dùng, các công ty nhỏ cũng có thể chi trả các giải pháp và nền tảng đám mây – giống với những thứ mà hiện các tập đoàn toàn cầu đang dùng. Các công ty không phải đầu tư máy chủ, trung tâm dữ liệu vật lý như trước đây và dễ dàng mở rộng quy mô hơn khi sử dụng nền tảng cloud.

Tại sao một thị trường nhỏ như Việt Nam lại được AWS quan tâm đến mức đích thân Phó chủ tịch Amazon đến tìm hiểu? Trả lời câu hỏi này, ông Werner cho rằng nhiều công ty khởi nghiệp hiện nay tại Việt Nam đều đang nhắm đến thị trường nước ngoài ngay từ đầu. Với đám mây, các công ty không có biên giới quốc gia, có thể cung cấp dịch vụ ra toàn thế giới, do đó thị trường không chỉ gói gọn tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, Việt Nam có nền kinh tế phát triển nhanh, dự báo nằm trong các nền kinh tế lớn trong khu vực, do đó nhu cầu dùng các dịch vụ công nghệ thông tin sẽ rất lớn. Ngoài ra, kỹ sư Việt Nam được đào tạo bài bản, có tay nghề, do đó sẽ góp phần lớn đưa nền công nghệ trong nước mạnh lên.

Trong sự kiện này, công ty bóng đèn Điện Quang đã giới thiệu về những dịch vụ đám mây họ sử dụng. Công ty bắt đầu chú trọng phát triển đèn thông minh, các thiết bị dành cho nhà thông minh, IoT từ năm 2016, do đó đã chuyển đổi sang dùng dịch vụ đám mây từ thời điểm này.

“Nhiều startup Việt Nam ngay từ đầu đã chọn kinh doanh ở cả thị trường nước ngoài”, ông Werner nói. Ảnh: H.Đ.

Việc dùng trung tâm dữ liệu riêng, theo Điện Quang, có những hạn chế về bảo mật, nền tảng riêng nên không kết nối được với các sản phẩm công ty khác, khó mở rộng quy mô công ty. Sau khi dùng các dịch vụ đám mây, công ty cho biết giảm được 65% lực lượng lao động, tiết kiệm 80% chi phí đầu tư ban đầu, rút ngắn được khoảng 6 tháng trong việc tung sản phẩm ra thị trường.

Đại diện VPBank cũng trình bày sản phẩm Yolo, ứng dụng ngân hàng số tích hợp nhiều tiện ích khác như gọi xe taxi, gọi đồ ăn, mua vé máy bay,… mới ra mắt gần đây. Nền tảng đám mây chính là xương sống của ứng dụng này. Với việc dùng đám mây, VPBank đã phát triển sản phẩm và tung ra thị trường trong vòng 6 tháng, so với trước đây phải mất vài năm.

Chuyển đổi số (Digital Transformation) được nhắc đến nhiều thời gian gần đây, trong bối cảnh Internet phát triển vũ bão, nhiều dịch vụ và ngành nghề mới hoàn toàn được tung ra. Các công ty lớn không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn phải e dè những công ty khởi nghiệp vô danh ở bất kỳ đâu trên toàn cầu. Do đó, việc sử dụng những nền tảng tiên tiến hơn, như đám mây, là một trong những yếu tố quan trọng giúp các công ty cạnh tranh, phát triển trong giai đoạn này. Các công ty buộc phải chuyển đổi nếu không muốn bị tụt lại phía sau.

Từ vụ thâu tóm Whole Foods, nhìn lại chiến lược của Amazon

Nếu bạn không nắm được mục tiêu của một công ty sẽ rất khó để bạn biết được các chiến lược và chiến thuật của họ. Càng khó khăn hơn khi phần lớn các công ty, đặc biệt là các công ty có tham vọng lớn thường không có mục tiêu cố định mà sẽ thay đổi tùy vào tốc độ phát triển của họ.

Quay về năm 2006 khi việc ra mắt dòng iPhone đầu tiên vẫn chỉ là tin đồn, Giám đốc điều hành (CEO) của Palm – công ty sản xuất điện thoại nổi tiếng tại thời điểm đó – ông Ed Colligan được hỏi liệu ông có lo ngại về sự xuất hiện của iPhone không? Lúc ấy, Colligan đã trả lời tự tin rằng “Chúng tôi đã dành nhiều năm để phát triển một chiếc điện thoại tốt, tinh tế. Những gã chuyên sản xuất các thiết bị điện tử sẽ khó có thể nắm được những bí quyết đó và khó có khả năng trụ vững ở thị trường điện thoại”. Ông Colligan còn phân tích thêm rằng nếu công ty của Steve Jobs đưa ra thị trường một chiếc điện thoại thì khả năng cao sản phẩm này sẽ tương tự iPod, sử dụng mạng WiFi, được phân phối qua các cửa hàng của Apple và không sử dụng dịch vụ của các nhà mạng viễn thông như Verizon hay Cingular.

Nay, việc Amazon thâu tóm Whole Foods với giá 13,7 tỉ USD khiến tôi nhớ lại những phát biểu đầy tự tin của ông Colligan về iPhone năm ấy. Hai năm trước, nhà sáng lập kiêm CEO của Whole Foods – John Mackey đã dự đoán việc lấn sân sang ngành hàng tiêu dùng sẽ là một thất bại của Amazon. Tuy nhiên sau này ông Mackey và ông Colligan đều ngậm ngùi vì những phát biểu vội vàng của mình khi Apple đã bỏ xa Palm từ những ngày đầu tiên ra mắt và hiện tại Amazon đã thâu tóm toàn bộ Whole Foods.

Ảnh: ABC.

Không chỉ trùng hợp khi có những nhận định quá vội vàng, mà cả Colligan và Mackey đều cùng mắc một sai lầm nghiêm trọng: họ đánh giá sai các mục tiêu, chiến lược và chiến thuật của đối thủ. Điều này dễ dàng nhận thấy qua trường hợp của Colligan và iPhone: mục tiêu của Apple không phải là sản xuất điện thoại mà là sản xuất một chiếc máy tính cá nhân siêu nhỏ; chiến lược của họ không phải là thêm tính năng vào một chiếc điện thoại mà là giảm vai trò của việc nghe gọi chỉ là một app nhỏ trong chiếc máy tính đó; và chiến thuật của họ không phải là đối đầu với các nhà mạng mà là tận dụng lượng khách hàng sẵn có của Apple để tạo ra giá trị cũng như ảnh hưởng lên các nhà mạng.

Với trường hợp của Amazon và Whole Foods, mục tiêu và chiến lược của Amazon có phần khó đoán hơn. Trong khi iPhone có lẽ đã trở thành sản phẩm công nghệ thành công nhất mọi thời đại, Amazon và Jeff Bazos – CEO của Amazon – đặt ra tầm nhìn và nhiệm vụ là trở thành công ty thống lĩnh mọi mặt trận kinh doanh từ online đến offline. Nếu dựa trên mục tiêu này thì việc Amazon mua lại Whole Food là điều có thể hiểu được.

Mục tiêu của Amazon

Nếu bạn không nắm được mục tiêu của một công ty sẽ rất khó để bạn biết được các chiến lược và chiến thuật của họ. Càng khó khăn hơn khi phần lớn các công ty, đặc biệt là các công ty có tham vọng lớn thường không có mục tiêu cố định mà sẽ thay đổi tùy vào tốc độ phát triển của họ. Có thể thấy điều này qua sự thay đổi mục tiêu của Amazon theo thời gian. Đầu tiên vào năm 1997, trong báo cáo thường niên công bố trên sàn giao dịch chứng khoán Nasdaq, mục tiêu của Amazon là:

“Trở thành nhà bán lẻ trực tuyến hàng đầu về các sản phẩm và dịch vụ thông tin, cụ thể là một số loại nội dung sở hữu trí tuệ được lưu trữ ở định dạng kĩ thuật số như e-book, bản PDF, bản ghi âm, video… phù hợp để bán trên Internet. Trọng tâm Amazon sẽ tập trung chủ yếu vào sách.”

Kể cả khi bạn nhận ra được rằng sách và các sản phẩm thông tin chỉ là bước khởi đầu (điều mà hầu hết mọi người không nhận ra tại thời điểm đó) thì cũng khó để tưởng tượng được tốc độ phát triển và mở rộng nhanh chóng của Amazon.com khi chỉ một vài năm sau Amazon đã cập nhật sứ mệnh mới của công ty. Sứ mệnh này cho thấy tham vọng thực sự của họ đối với ngành thương mại điện tử: “Sứ mệnh của chúng tôi là trở thành công ty hàng đầu thế giới về việc lấy khách hàng làm trọng tâm; xây dựng nên một hệ thống mà khách hàng có thể tìm mua bất cứ thứ gì họ muốn trên online”.

“Mua bất kì thứ gì khách hàng muốn” là một phạm vi khá rộng. Tuy nhiên, sự ra đời của Amazon Web Services (AWS) – nền tảng dịch vụ đám mây an toàn, mang đến khả năng tính toán, lưu trữ cơ sở dữ liệu, phân phối nội dung và các chức năng khác nhằm giúp các doanh nghiệp mở rộng và phát triển – đã chứng minh Amazon hoàn toàn có thể cung cấp cho khách hàng “bất kì thứ gì họ muốn”. Do đó, một vài năm trước, mục tiêu của công ty này chỉ còn lại mệnh đề đầu tiên: chúng tôi đang tìm cách để trở thành công ty hàng đầu thế giới về việc lấy khách hàng làm trọng tâm. Từ sự chỉnh sửa mục tiêu của Amazon có thể thấy được rằng thị trường công ty này hướng tới là toàn thế giới và không còn bó hẹp trong lĩnh vực thương mại điện tử. Cụ thể hơn, mục tiêu của Amazon là có mặt trong tất cả các loại hoạt động kinh tế.

Từ đó, có thể thấy sai lầm của Mackey xuất phát từ việc không nắm rõ được mục tiêu của đối thủ: trong khi ông hiểu được rằng Amazon sẽ tìm đủ mọi cách để thành công với ngành hàng tiêu dùng – chiếm đến 20% lượng chi tiêu của người tiêu dùng – nhưng phán đoán của ông chỉ dừng lại ở việc các nỗ lực của Amazon sẽ giới hạn trong lĩnh vực thương mại điện tử. Tuy nhiên, thương mại điện tử thực chất chỉ là một chiến thuật. Khi đối chiếu với cách tiếp cận hiện tại của Amazon có thể thấy thương mại điện tử không phải là chiến lược của họ.

Chiến lược của Amazon

Đặt ra một mục tiêu đầy tham vọng là “có mặt trong tất cả các hoạt động kinh tế” dẫn đến việc Amazon có vài chiến lược khác nhau để thực hiện điều này.

Đối với nhóm khách hàng doanh nghiệp, sản phẩm chiến lược là AWS: nếu việc thực hiện các hoạt động kinh doanh trực tuyến dựa trên thuật toán đám mây là lựa chọn tốt và các công ty sẽ sớm chuyển sang hình thức này thì AWS sẽ là nơi thích hợp để Amazon tham gia vào tất cả các hoạt động kinh tế.

Về phía người tiêu dùng, sản phẩm chiến lược là Amazon Prime – gói dịch vụ nâng cấp thành viên với mức phí 99USD/năm hoặc 10.99USD/tháng cho gói dịch vụ Vip. Từ trước đến nay, Amazon luôn theo đuổi chiến lược áp đảo (dominant strategy) trong ngành hàng bán lẻ với 2 tiêu chí: giá ưu đãi và mặt hàng đa dạng. Tuy nhiên rất khó để có thể nổi bật và đứng vững trong thị trường chỉ với hai ưu thế trên khi các đối thủ cạnh tranh cũng dần theo kịp được tốc độ của họ.

Do đó sự xuất hiện của Prime là điểm sáng của Amazon. Nhờ vào độ tin cậy và thuận tiện của dịch vụ (hai ngày vận chuyển, thậm chí đôi khi nhanh hơn!) cùng với sự mềm lòng của người tiêu dùng khi cân nhắc đến chi phí chìm. Chí phí chìm (sunk cost) là chi phí bỏ ra và không thu hồi lại được, trong trường hợp của Prime thì phí nâng cấp 99 USD/năm chính là chi phí chìm. Vì bạn đã bỏ ra 99 USD để sử dụng dịch vụ trong một năm, nên không có lý do gì để bạn lựa chọn một nhà cung cấp khác ngoài Amazon cả. Có thể nói, Prime chính là “hàng rào” bảo vệ các sản phẩm tiêu dùng của Amazon trước sự cạnh tranh của thị trường. Giờ đây, người tiêu dùng lựa chọn Amazon không chỉ vì giá cả mà còn vì sự tiện ích của các dịch vụ hỗ trợ như Prime mang lại.

Tuy nhiên, ngành hàng tiêu dùng đồng thời cũng là lỗ hổng trong chiến lược của Amazon. Ngoài việc đây là ngành có nhu cầu cao, sự đa dạng sản phẩm sẽ tạo cơ hội cho các nhà bán lẻ khác tiếp cận với lượng thành viên của Prime và khiến họ nhận ra rằng ngoài Amazon vẫn có những lựa chọn khác thay thế. Do đó, Amazon rất chú trọng đầu tư vào lĩnh vực này để bảo vệ thị phần của mình. Điển hình là sự ra đời của AmazonFresh – dịch vụ giao và nhận mặt hàng thực phẩm dành riêng cho các thành viên Amazon Prime – vào năm 2007. AmazonFresh nhận được được nhiều khoản đầu tư lớn để mạnh tay chi tiêu vào những cải tiến như mở các cửa hàng tiện lợi và dịch vụ nhận hàng trực tiếp tại các cửa hàng theo giờ khách hẹn trước. Tuy nhiên dịch vụ nhận hàng trực tiếp vẫn đang ở giai đoạn thử nghiệm và hình thức cửa hàng tiện lợi vẫn chưa có tiến triển rõ ràng. Nhìn chung, có thể thấy Amazon vẫn đang cố gắng tìm mọi cách phát triển việc kinh doanh lĩnh vực hàng tiêu dùng nhưng vẫn chưa xác định được chiến thuật phù hợp nhất cho mình.

Chiến thuật của Amazon

Lý do khiến ngành hàng tiêu dùng trở thành thử thách của Amazon nằm ở sự khác biệt giữa mặt hàng này với sản phẩm sách – mặt hàng kinh doanh đầu tiên của công ty:

  • Số lượng sách được lưu trữ tại các kho là rất lớn do vậy khi kinh doanh sách bằng hình thức thương mại điện tử thì sẽ có lợi thế về sự đa dạng; trong khi các mặt hàng tiêu dùng thường bị hạn chế về số lượng sản phẩm lưu trữ (một cửa hàng tạp hóa bình thường sẽ lưu trữ khoảng 30,000 – 50,000 sản phẩm).
  • Khi bạn đặt một cuốn sách trên mạng, bạn biết rõ về nội dung, chất lượng của sản phẩm đó và chất lượng cuốn sách sẽ không thay đổi trong quá trình vận chuyển; nhưng với các hàng tiêu dùng thì chất lượng sản phẩm có thể rất đa dạng, không chỉ là sự khác nhau giữa các cửa hàng mà đặc biệt đối với các loại hàng thực phẩm, chất lượng sản phẩm sẽ thay đổi, có sự khác biệt qua từng ngày.
  • Sách có thể được lưu trữ vô thời hạn trong kho nhưng các mặt hàng tiêu dùng ngắn hạn như thực phẩm tươi sống thì chỉ có thể lưu trữ trong một khoảng thời gian nhất định và chất lượng sản phẩm có thể không còn tươi mới sau khi vận chuyển.

Ảnh: IMD business school.

Ông Mackey chắc chắn đã hiểu rằng, AmazonFresh sẽ là một bất lợi về chi phí cho các cửa hàng tạp hóa truyền thống. Để có thể tăng sức cạnh tranh, AmazonFresh cần có số lượng lớn thực phẩm; tuy nhiên theo bản chất tự nhiên của loại hàng thực phẩm, phạm vi cung cấp lớn nhất chỉ dừng ở mức thành phố để đảm bảo chất lượng của hàng hóa. Do đó vấn đề của Amazon là họ cần một lượng sản phẩm lớn để đạt được mức lợi thế kinh tế nhờ quy mô, do vậy phạm vi cung cấp nhỏ (thành phố thay vì toàn quốc) sẽ dẫn đến tổn thất về chi phí bảo quản cũng như tổn thất về số sản phẩm bị hư hại.

Kinh doanh mặt hàng thực phẩm là một lĩnh vực khác hoàn toàn với các sản phẩm trước đây của Amazon. Do đó, họ cần có một giải pháp chuyên biệt để giải quyết các vấn đề đang tồn tại. Amazon đã giải bài toán này bằng việc thu mua Whole Foods Market – chuỗi siêu thị chuyên cung cấp các thực phẩm hữu cơ, sở hữu 479 cửa hàng tại Mỹ và Anh. Whole Foods Market có độ phủ rộng và nguồn hàng phong phú sẽ là nhà kho hỗ trợ việc giao hàng hóa, giải quyết vấn đề hiện tại của Amazon.

“Khách hàng chiến lược” của Amazon

Những sản phẩm khác nhau của Amazon – như AWS, Amazon Fullfillment Services (AFS) và Prime – có sự kết nối chặt chẽ với nhau về mặt chiến lược, đây là gốc rễ trong cách Amazon vận hành.

Trước hết hãy xem thử mối quan hệ giữa AWS với nhánh e-commerce của Amazon có mối liên quan với nhau như thế nào.

Để vận hành “cỗ máy” công nghệ AWS, đòi hỏi Amazon phải đầu tư rất lớn vào cơ sở hạ tầng máy chủ, lưu trữ và xử lý, cơ sở dữ liệu… Cỗ máy AWS không chỉ được sử dụng bởi nhánh e-commerce của Amazon, mà còn được khai thác cho các đối tác bên ngoài (Facebook hay Google cũng có lượng lớn máy chủ đặt tại AWS).

Theo đó, vai trò của AWS đối với Amazon có một số đặc điểm như:

  • AWS có định phí lớn (đầu tư “nông trại” máy chủ lớn) nhưng cũng có thể mang lại lợi nhuận lớn nếu việc kinh doanh mang lại lợi thế về quy mô.
  • Tuy vậy, chi phí để đầu tư xây dựng AWS được khấu hao nhanh là do AWS đã có ngay một “khách hàng chiến lược” giá trị lớn ngay thời kỳ đầu, chính là nhánh e-commerce của Amazon (Nếu không có nhánh này, chưa chắc AWS đã có thể tối ưu chi phí và đạt lợi thế quy mô).
  • Phần công suất “dư ra” của AWS, có được nhờ lợi thế quy mô, có thể được bán cho các khách hàng nằm ngoài Amazon, giúp tăng hiệu suất theo quy mô và sức cạnh tranh của AWS.

Đặc điểm cuối cùng mang tính “đôi bên cùng có lợi” cho cả nhánh e-commerce Amazon và nhóm khách hàng doanh nghiệp của AWS: các khách hàng doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn tài nguyên máy chủ công nghệ cao với chi phí rất hợp lý; trong khi đó nhánh e-commerce của Amazon cũng đạt được quy mô lớn với mức chi phí tối ưu, trong đó chính họ đã là một “khách hàng chiến lược” giúp tạo ra lợi thế này. Bên này bán nhiều thì càng có lợi cho bên kia và ngược lại.

Áp dụng cách phân tích tương tự cho dịch vụ AFS và Prime. Nhắc lại một chút, Prime là dịch vụ khách hàng cao cấp, cung cấp những lựa chọn đa dạng, giá cả tối ưu, giao hàng tốc độ. Duy trì Prime tốn nhiều chi phí và cần có lợi thế quy mô để sinh lời. Mô hình này có thể hiểu sơ lược như hình sau:

Tương tự như mối quan hệ giữa AWS, nhóm KH doanh nghiệp và nhánh e-commerce của Amazon, mô hình mối quan hệ giữa AFS, Prime và nhánh e-commerce cũng có những đặc điểm tương tự:

  • Phân phối hàng hóa cho nhánh e-commerce của Amazon có chi phí cố định lớn và chỉ có thể sinh lời từ lợi thế về quy mô.
  • Do đó, chi phí để xây dựng hệ thống lưu kho và giao hàng sẵn có của AFS, vốn là một khoản đầu tư rất lớn, nhưng vẫn được cân đối tốt, là nhờ AFS có ngay một “khách hàng chiến lược” thời kỳ đầu chính là nhánh e-commerce của Amazon.
  • Đặc điểm cuối cùng có thể hơi khó hiểu, nhưng nếu bạn biết rằng, thực tế 40% sản phẩm của Amazon bán là đến từ các đối tác cung cấp (3rd-party merchant); hầu hết các nhà cung cấp này đều phải sử dụng dịch vụ lưu kho và giao hàng sẵn có của AFS. Và điều này cũng có nghĩa là hàng hoá của họ sẽ được ưu tiên giới thiệu đến thành viên Prime, giao hàng nhanh hơn với giá tốt hơn. Việc này quay trở lại, khiến có nhiều người muốn đăng ký dịch vụ Prime hơn, tăng công suất của AFS đạt đến mức lợi thế nhờ quy mô, và củng cố mảng e-commerce của Amazon.

Từ 2 phân tích trên, nếu áp dụng cách nhìn đó cho mảng logistic, cũng là một mảng mà nhánh e-commerce sử dụng nhiều, thì có thể thấy rõ chiến lược của Amazon: họ có thể xây dựng một mạng lưới giao nhận mới của riêng mình, và khách hàng chiến lược đầu tiên chính là nhánh e-commerce. Sau đó, mạng lưới giao nhận đó có thể hoạt động độc lập và cung cấp dịch vụ cho các đối tác bên ngoài.

Việc Amazon chưa thể xây dựng được mảng logistic, có thể lý giải được bởi lý do đơn giản: không có vị “khách hàng chiến lược” bao thầu chi phí cho mảng này thời gian đầu, như AWS và AFS. Sự vắng mặt của vị “khách hàng chiến lược” đã tạo ra những rào cản cho sự phát triển của AmazonFresh. Khi đó, việc thâu tóm Whole Foods có thể xem là mảnh ghép chiến lược cuối cùng để hoàn thiện bức tranh tham vọng thứ 3 này của Amazon.

Whole Foods: không chỉ là nhà cung cấp mà còn là “khách hàng chiến lược”

Nếu chỉ phân tích bề nổi thì chúng ta sẽ kết luận rằng việc Amazon thâu tóm Whole Foods là để có thêm một kênh bán lẻ hàng hoá. Tuy nhiên, thực tế Amazon đang “mua” thêm một khách hàng chiến lược nhằm phát triển các nỗ lực của công ty này trong ngành hàng tiêu dùng.

Hiện tại, hệ thống logistics đi và đến các cửa hàng Whole Foods vẫn tập trung vào việc lấp đầy các quầy kệ. Tôi hy vọng trong một vài năm tới Amazon sẽ thay đổi chuỗi cung ứng của Whole Foods thành một hình thức dịch vụ dựa trên các mặt hàng cơ bản như: thịt, trái cây, rau củ, thực phẩm sử dụng dài ngày (việc Whole Foods phụ thuộc rất nhiều vào thương hiệu cửa hàng truyền thống có thể là điều thu hút Amazon). Đặc biệt, điều khiến cho việc thâu tóm này hoàn toàn xứng đáng là dịch vụ logistic (tạm đặt tên là Amazon Grocery Services – AGS) hiện đã có một “khách hàng chiến lược” lớn và lâu dài: Whole Foods Markets.

Trong tương lai, các cửa hàng tạp hóa truyền thống sẽ chỉ là một trong những khách hàng của AGS: sẽ có dịch vụ giao hàng tận nhà của người tiêu dùng (không cần đến tạp hoá nữa), chắc chắn sẽ tiện lợi và hiệu quả hơn hơn so với đối thủ Instacart – công ty cung ứng đồ tạp hóa qua website và ứng dụng di động đang hợp tác với Whole Foods Markets.

Nhưng tôi đoán rằng tham vọng của Amazon không chỉ dừng lại ở đây; các dịch vụ tạp hóa của AGS sẽ được chuẩn bị kĩ lưỡng để bắt đầu cung cấp hàng tiêu dùng cho các nhà hàng, tăng khả năng tiếp cận của Amazon với một lĩnh vực kinh tế lớn khác. Đây lại là một ví dụ của mô hình AWS hay AFS mà chúng ta đã phân tích bên trên. Tuy nhiên, cũng như AWS, yếu tố then chốt để thu được lợi nhuận là phải có “khách hàng chiến lược” cho AGS để đạt được lợi nhuận ở mức quy mô có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh. Và Whole Foods, với lợi thế là một nhà bán lẻ lớn, có thể là một mắt xích khởi đầu cho việc tạo ra yếu tố khách hàng chiến lược này.

Như tôi đã đề cập ở phần đầu rằng Mackey đã đánh giá sai mục tiêu, chiến lược, chiến thuật của Amazon. Tuy nhiên còn có một lỗ hổng lớn trong nhận định của Mackey về Amazon: thực tế, Amazon không có tham vọng trở thành ông trùm của ngành hàng tiêu dùng cũng như trở thành nhà bán lẻ hàng đầu như đa số mọi người đánh giá và nhìn nhận; vai trò cốt lõi của Amazon là nhà cung cấp dịch vụ -trở nên hùng mạnh hơn, và được bảo vệ bởi sự quy mô của các dịch vụ mà họ cung cấp.

Trái với các dự đoán của ông Mackey, ngành hàng tiêu dùng không phải là sự thất bại của Amazon. Không chỉ phát triển ổn định, công ty này còn tìm ra được giải pháp phù hợp cho các vấn đề trong lĩnh vực này. Việc thâu tóm Whole Foods được xem là hành động giúp Amazon tiến gần hơn đến mục tiêu “tham gia vào tất cả các hoạt động kinh tế” trên thị trường.

Việc thâu tóm Whole Foods được xem là hành động giúp Amazon tiến gần hơn đến mục tiêu “tham gia vào tất cả các hoạt động kinh tế” trên thị trường.

Người giàu nhất hành tinh kiếm và tiêu tiền như thế nào?

Tài sản của Bezos lớn đến mức 88.000 USD đối với ông cũng chỉ như một USD với người Mỹ bình thường.

Jeff Bezos – nhà sáng lập kiêm CEO đại gia thương mại điện tử – Amazon là người giàu nhất thế giới hiện tại, với khối tài sản hiện lên tới 168 tỷ USD, theo Bloomberg.

Bezos thành lập Amazon – nguồn tài sản lớn nhất của ông – năm 1994. Cha mẹ Bezos khi ấy đã rất sốc vì con trai bỏ công việc thoải mái ở Wall Street để bán sách online.

Amazon làm IPO năm 1997. Đến nay, sau khi điều chỉnh qua các đợt chia tách, giá cổ phiếu này đã tăng hơn 97.000%. Suốt hai thập kỷ qua, Amazon cũng mở rộng sang nhiều lĩnh vực, từ sản xuất hàng điện tử tiêu dùng, điện toán đám mây đến chuỗi cửa hàng thực phẩm.

Bezos hiện là cổ đông lớn nhất của Amazon, với 16%. Ông cũng đầu tư vào nhiều công ty khác, cả ở cấp độ cá nhân lẫn qua công ty Bezos Expeditions.

Năm 1998, Bezos đổ tiền vào Google. Một triệu USD của ông khi đó cũng đủ biến Bezos thành tỷ phú, chưa kể đến khối tài sản tại Amazon.

Một trong những khoản đầu tư cá nhân nổi bật nhất của Bezos gần đây là mua tờ Washington Post với giá 250 triệu USD năm 2013.

Tài sản của Bezos lớn đến mức, theo Business Insider, 88.000 USD đối với ông cũng chỉ như 1 USD với người Mỹ bình thường.

Bezos cũng là một trong những chủ đất lớn nhất Mỹ. Trong đó có một bất động sản gồm 2 căn nhà trên diện tích 21.400m2 tại bang Washington, không xa trụ sở của Amazon tại Seattle.

Bezos cũng sở hữu một căn biệt thự kiểu Tây Ban Nha tại Beverly Hills, California.

Ngoài ra, ông còn có một trang trại ở Van Horn, Texas và một căn nhà khác ở thủ đô Washington.

Bezos khá tiết kiệm với phương tiện giao thông đường bộ. Tuy nhiên, ông lại sở hữu một chiếc chuyên cơ Gulfstream G650ER giá 65 triệu USD.

Ông chủ Amazon cũng có khẩu vị khá khác người, khi từng ăn sáng bằng bạch tuộc.

Bezos không làm từ thiện nhiều như các tỷ phú top đầu khác, như Warren Buffett hay Bill Gates. Dù vậy, ông cũng hỗ trợ nhiều tổ chức, như Mary’s Place – cung cấp nơi ở và đào tạo nghề cho người vô gia cư hay TheDream.US – hỗ trợ những người di cư bất hợp pháp đến Mỹ khi còn nhỏ.

Ông còn đóng góp số tiền lớn cho Trung tâm nghiên cứu Ung thư Fred Hutchinson, Đại học Princeton và Quỹ của Đại học Washington.

Dự án tham vọng nhất của Bezos là Blue Origin – công ty nghiên cu du lịch vũ trụ.

Vì sự đam mê với vũ trụ, Bezos còn tài trợ cho chương trình tìm kiếm “những phần còn lại của động cơ tên lửa đẩy của phi thuyền Apollo dưới đáy Đại Tây Dương” từ năm 2013.

Sau Alibaba, đến lượt Amazon đổ bộ vào Việt Nam

Giống như Alibaba, Amazon sẽ đổ bộ vào thị trường Việt Nam bằng các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ bán hàng, song song với việc xuất khẩu qua hệ sinh thái của Amazon.

Sau Alibaba, đến lượt Amazon đổ bộ vào Việt Nam

Amazon sắp đổ bộ vào thị trường Việt Nam. Ảnh: Ayola TV

Theo thông tin từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM), tại Diễn đàn Toàn cảnh Thương mại điện tử Việt Nam VOBF 2018 diễn ra vào ngày 14/3 tới đây, Amazon sẽ khởi động một chương trình hợp tác cùng Hiệp hội để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam có thể bán hàng, xuất khẩu qua hệ sinh thái của Amazon.

Sau những thăm dò ban đầu, đây sẽ là động thái đầu tiên của Amazon trên thị trường thương mại điện tử Việt Nam.  Và, có vẻ như Amazon đang đi theo cách của Alibaba trước đó – hợp tác với các đại diện Việt Nam để khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu qua kênh của họ.

Thông tin đại gia thương mại điện tử Mỹ đổ bộ thị trường Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ hồi cuối năm ngoái. Theo chia sẻ từ đại diện VECOM, sau buổi làm việc cùng đại diện của Amazon, doanh nghiệp Mỹ này bày tỏ muốn hỗ trợ khách hàng Việt mua, bán hàng trên Amazon.

Đặc biệt, họ muốn hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa xuất khẩu qua hệ sinh thái của Amazon.

Theo đánh giá của VECOM, tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử của Việt Nam năm 2017 đạt trên 25% và tốc độ này có thể được duy trì trong giai đoạn 2018 – 2020.