Category Archives: Pages

Nhà cung cấp cho Apple muốn chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam

Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang khiến nhiều nhà cung cấp cho Apple cân nhắc chuyển đi để né thuế.

GoerTek (Trung Quốc) – hãng lắp ráp tai nghe AirPods đã thông báo với các nhà cung cấp về dự định chuyển sản xuất tai nghe không dây sang Việt Nam, Nikkei cho biết. GoerTek đã đề nghị các nhà cung cấp trong dây chuyền sản xuất AirPods trong tuần trước xác nhận có thể chuyển trực tiếp toàn bộ nguyên vật liệu và linh kiện sang Việt Nam hay không.

Dù vậy, đây chưa phải quyết định cuối cùng, do họ cần bàn bạc thêm với Apple. Táo Khuyết đã được thông báo về kế hoạch này. GoerTek hy vọng tất cả nhà cung cấp của họ có thể đảm bảo giá và việc giao hàng như trong hợp đồng.

Kế hoạch này được đưa ra trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ – Trung Quốc ngày càng trầm trọng, đẩy Apple và các hãng cung cấp vào thế khó. Tổng thống Mỹ – Donald Trump thường xuyên thúc giục hãng này chuyển sản xuất về Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc không chỉ là trung tâm sản xuất quan trọng nhất, mà còn là thị trường lớn của Apple, đóng góp 20% doanh thu hàng năm cho công ty này. Vì vậy, việc rời đi sẽ khiến Apple gặp rắc rối lớn.

“Apple là mục tiêu rõ ràng nhất, nếu Trung Quốc muốn trả đũa các công ty Mỹ”, James Wei – nhà phân tích tại Yuanta Investment Consulting nhận xét, “Apple và các nhà cung cấp chính của họ sẽ đối mặt với nhiều rủi ro chính trị khi cuộc chiến tiếp tục nóng lên”.

Tai nghe AirPods của Apple sản xuất tại Trung Quốc. Ảnh: Apple.

AirPods, Apple Watch và HomePed của Apple ban đầu nằm trong danh sách 200 tỷ USD hàng hóa từ Trung Quốc bị đánh thuế nhập khẩu khi vào Mỹ từ cuối tháng 9. Tuy nhiên, các sản phẩm này đã được loại ra vào phút chót. Nhiều nguồn tin trong ngành cho biết các nhà cung cấp vẫn lo sợ bị áp thuế, khi Tổng thống Mỹ – Donald Trump dọa đánh thuế thêm 267 tỷ USD hàng Trung Quốc.

Cheng Uei – hãng cung cấp sạc và cáp sạc cho iPhone cùng nhiều smartphone chạy Android cũng cho biết đang cân nhắc chuyển sản xuất về Đài Loan (Trung Quốc) và Đông Nam Á, do căng thẳng Mỹ – Trung. “Chúng tôi đang nghĩ đến việc tăng sản xuất tại nhà máy ở Đài Loan. Việc này sẽ không mất nhiều thời gian đâu. Chúng tôi có thể thực hiện trong một hoặc hai tháng”, Chủ tịch công ty – T.C. Gou cho biết trên Nikkei.

Dù vậy, ông cũng thừa nhận rời Trung Quốc không dễ, do dây chuyền sản xuất ở đây đã tồn tại hàng thập kỷ. Chính quyền địa phương cũng có nhiều chính sách ưu đãi nhằm giữ chân các công ty. Cheng Uei sẽ ra quyết định cuối cùng khi biết chắc chắn ông Trump có thực hiện lời đe dọa trên hay không.

Pegatron – hãng lắp ráp iPhone lớn nhì cho Apple, sau Foxconn cũng đang cân nhắc các địa điểm tại Đài Loan để xây nhà máy mới. Cơ sở này sẽ sản xuất các sản phẩm không thuộc Apple để bù đắp chi phí tăng do chiến tranh thương mại, Nikkei trích lời một nguồn tin thân cận cho biết.

Chi hàng tỷ USD làm dự án, đại gia Việt giàu ra sao so với khu vực?

Người giàu nhất Việt Nam chỉ đứng thứ 11 tại Đông Nam Á. Tổng khối tài sản của các tỷ phú Việt nhỏ hơn rất nhiều so với các quốc gia trong khu vực, kém 5-8 lần.

Gần đây các doanh nghiệp Việt được truyền thông quốc tế nhắc tới rất nhiều với những dự án tỷ USD đầy tham vọng như sản xuất xe hơi của VinFast, hàng không của Bamboo Airways hay dự án thép Dung Quất của Hòa Phát… Gây được tiếng vang lớn với quốc tế, sở hữu khối tài sản nhiều tỷ USD nhưng so với các tỷ phú khác trong khu vực Đông Nam Á khối tài sản của những đại gia người Việt vẫn còn rất khiêm tốn.

Người giàu nhất chưa lọt vào top 10 Đông Nam Á

Ông Phạm Nhật Vượng hiện là đại gia giàu nhất Việt Nam sở hữu khối tài sản ròng lên tới 6,4 tỷ USD, theo xếp hạng của Forbes.

Tính từ đầu năm 2017 đến nay, khối tài sản của vị đại gia này đã tăng hơn 4 tỷ USD và là người có tốc độ gia tăng tài sản ròng nhanh nhất Đông Nam Á trong vòng một năm qua. Trong khi đó, tài sản các tỷ phú của quốc gia khác không tăng nhiều, thậm chí còn giảm mạnh so với một năm trước như trường hợp của tỷ phú Charoen Sirivadhanabhakdi (Thái Lan) và Henry Sy (Philippines) cùng mất tới 3,5 tỷ USD.

Là người giàu nhất Việt Nam, nhưng chỉ tính tại Đông Nam Á, ông Vượng vẫn chưa thể gia nhập top 10 người giàu nhất khu vực. Với khối tài sản 6,4 tỷ USD, ông xếp thứ 11 trong danh sách tỷ phú USD Đông Nam Á, cùng vị trí với 2 người khác là ông The Hong Piow (Malaysia) và ông Wee Cho Yaw (Singapore). Đây là 2 đại gia có tiếng trong lĩnh vực tài chính không chỉ tại quốc gia họ mà trên thế giới. Trong khi ông The Hong Piow là Chủ tịch và cổ đông lớn sở hữu gần 1/4 vốn của Malaysia Public Bank thì ông Wee Cho Yaw cũng là Chủ tịch của United Overseas Bank, ngân hàng cho vay lớn thứ 3 tại Singapore hiện nay.

Xếp trên ông Vượng là hàng loạt đại gia có tiếng khác như Chủ tịch tập đoàn nông nghiệp lớn nhất Thái Lan và nổi tiếng tại Việt Nam C.P Group, ông Dhanin Chearavanont với 14,5 tỷ USD tài sản; ông chủ mới của Bia Sài Gòn – tỷ phú Charoen Sirivadhanabhakdi = với hơn 14,1 tỷ USD; hay anh em nhà Robert và Philip Ng với “đế chế” bất động sản Far East Organization nổi tiếng của Singapore…

Chưa thể gia nhập top 10 người giàu nhất tại Đông Nam Á, nhưng so với đầu năm ông Vượng đã tiến thêm tới 9 bậc trong danh sách các tỷ phú Đông Nam Á với khối tài sản ra tăng hơn 2,3 tỷ USD từ đầu năm đến nay.

Thậm chí, nếu so trong danh sách tỷ phú thế giới, chỉ trong chưa tới 1 năm, ông Vượng đã tiến thêm 257 bậc trên bảng xếp hạng, hiện đứng thứ 242 thế giới.

Tài sản tỷ phú Việt chỉ bằng 1/8 Thái Lan

Trong khi đó, các tỷ phú khác của Việt Nam hiện cũng xếp ở vị trí thấp trong danh sách người giàu Đông Nam Á. Đơn cử, nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, Tổng giám đốc Vietjet Air (VJC), hiện sở hữu 2,8 tỷ USD và xếp thứ 812 thế giới. So với đầu năm, khối tài sản của bà đã giảm hơn 300 triệu USD. Nguyên nhân lớn nhất của việc sụt giảm này đến từ việc cổ phiếu VJC đã giảm mạnh từ mức đỉnh hồi đầu năm. Tại Đông Nam Á, bà Thảo hiện xếp thứ 33.

Khối tài sản ròng hiện tại của 4 tỷ phú USD Việt Nam.

Hai tỷ phú mới được Forbes đưa vào danh sách hồi đầu năm là ông Trần Bá Dương và Trần Đình Long đang sở hữu lần lượt 1,7 tỷ USD và 1,2 tỷ USD tài sản ròng, không thay đổi nhiều so với giai đoạn đầu năm. Hai đại gia trong lĩnh vực công nghiệp nặng của Việt Nam đứng lần lượt thứ 63 và 84 trong khu vực.

Hiện tại, trong 6 quốc gia Đông Nam Á có tỷ phú USD trong danh sách của Forbes, Việt Nam là nước có ít tỷ phú nhất với chỉ 4 cái tên. Trong khi con số bên phía Malaysia và Philippines là 13; Indonesia là 14; Singapore là 21 và Thái Lan nhiều nhất với 32 cái tên trong danh sách này.

Tổng tài sản của 4 tỷ phú Việt Nam hiện cũng thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia khác với chỉ 12,1 tỷ USD. Số này đã tăng gần 2 tỷ USD so với đầu năm, nhưng so với các quốc gia khác trong khu vực, khối tài sản này vẫn kém 5-6 lần so với Indonesia và Malaysia, thậm chí kém Singapore và Thái Lan tới 7-8 lần.

Hiện Thái Lan vẫn đứng đầu khu vực về số lượng tỷ phú cũng như tổng tài sản các tỷ phú được xếp hạng với hơn 92,6 tỷ USD. Trong khi tỷ phú giàu nhất Đông Nam Á hiện nay là ông Henry Sy người Philippines với khối tài sản 16,5 tỷ USD.

Câu chuyện Vinfast: Từ tốt đến vĩ đại…

“Vinfast” và “tự hào” là hai từ khóa nổi bật trên truyền thông nước nhà trong những ngày qua, nhân sự kiện ra mắt hai mẫu xe đầu tiên của nhà sản xuất ô tô thuộc Vingroup.

Một chiến dịch truyền thông bài bản ở mức tốt đã thu hút được sự chú ý của mọi tầng lớp công chúng, nhưng để trở thành “vĩ đại”, thương hiệu xe nội địa này cần phải chứng minh được sự đúng đắn trong chiến lược đầu tư của mình bằng độ dài danh sách đơn đặt hàng từ tháng quý 3 năm 2019.

Bước khởi đầu tưng bừng

Kỷ lục hơn một triệu người xem livestream về sự kiện là một con số mơ ước với nhiều thương hiệu trên thế giới, không chỉ riêng ở Việt Nam. Các thống kê về số lượng bài báo quốc tế và Việt Nam, lượt nhắc đến trong các cuộc thảo luận trên mạng xã hội về sự kiện ra mắt Vinfast chắc chắn đã xô đổ mọi kỷ lục “talking about” trước đó.

Việc chọn địa điểm ra mắt xe ở một triển lãm ngành danh tiếng như Paris Motor Show để làm điểm ánh xạ thông tin là một quyết định chiến lược tốt. Lượng thông tin bài vở từ nước ngoài truyền về và qua con mắt của nhà báo quốc tế sẽ tạo được sự chú ý đặc biệt và lòng tin của công chúng.

Vinfast đã có được một chiến dịch truyền thông bài bản ở mức tốt. Nhưng… Ảnh: VinFast.

Kế hoạch truyền thông cũng được triển khai tốt khi cân bằng được 3 kênh truyền thông chính: truyền thông tự có (website, fanpage, hệ sinh thái truyền thông tập đoàn, cán bộ nhân viên), truyền thông trả tiền (trong và ngoài nước, truyền hình trực tiếp trên các kênh lớn), truyền thông tự lan tỏa (người đến dự triển lãm, người quan tâm, người trong giới và cư dân mạng nói chung).

Có thể nhìn thấy một sự cân bằng giữa truyền thông chính thống (báo hình, báo tiếng, báo mạng, báo in) với truyền thông mạng xã hội (người có ảnh hưởng chuyên môn, người nổi tiếng, facebook, zalo,…).

Chọn danh thủ David Beckham và hoa hậu vừa lên ngôi Trần Tiểu Vy cũng cho thấy sự nhanh nhạy và nắm bắt tâm lý thị trường tốt của những người triển khai chiến dịch.

Sự hiện diện của các diễn viên múa với tre cũng thu hút được sự chú ý đặc biệt của cánh báo chí quốc tế. Chiến thuật dùng sự kiện (event) để tạo thảo luận, tạo danh tiếng và khởi đầu xây dựng hình ảnh và định vị thương hiệu cũng tỏ ra có hiệu quả trong giai đoạn thu hút sự chú ý của thương hiệu (mô hình AIDA truyền thống).

Bước khởi đầu tưng bừng của Vinfast.

Chất Việt trong thương hiệu Vinfast là gì?

Danh họa Picasso đã từng nói “good artists copy, great artists steal” – Nghệ sỹ giỏi thì sao chép, nghệ sỹ thiên tài thì đi thó. Ông này đã “thó” cách tả mặt người qua những khối lập phương theo kiểu mặt nạ châu Phi và sáng lập ra trường phái lập thể. Thiên tài Steve Jobs của Apple đã “thó” sự phù phiếm nhưng cuốn hút của thời trang, sự tiện lợi và di động mọi nơi mọi lúc của Sony Walkman và sự toàn năng của máy tính cá nhân để “nén” vào chiếc Iphone. Thành công không phải lúc nào cũng cần đến từ sự sáng tạo mà còn đến từ sự tỉ mẩn và nghiêm cẩn trong sao chép.

Trên thế giới, doanh nhân Lee Kun Hee của Samsung đã tham khảo mô hình của 12 tập đoàn lớn trên thế giới để học theo và đưa cái tinh túy vào áp dụng ở tập đoàn mình vào thời điểm ông tiếp quản từ cha. Hàn Quốc học cách làm phim và pop music từ Mỹ, sự nghiêm cẩn và khắc nghiệt của showbiz Nhật và sự bảo hộ sản phẩm văn hóa nội địa từ người Pháp để làm nên những siêu phẩm Kpop Kmovie như ngày nay. Ngay cả nền công nghiệp ô tô của các nước châu Á cũng không phải được sáng tạo từ hư vô. Picasso từng nói hãy copy, copy, copy mãi, đến bao giờ copy hỏng, thì bạn tạo ra cái gì đó của riêng mình.

Theo quan điểm xây dựng thương hiệu hiện đại, ngoài các yếu tố về chức năng cơ bản của sản phẩm (như ô tô là để đi, ô tô thì phải an toàn,…) thì thương hiệu là giá trị mang lại cho khách hàng, gần với hình ảnh của khách hàng mong muốn thể hiện với xã hội và gần với giá trị mà chính khách hàng tin tưởng vào. Do đó, các bộ phận của một sản phẩm đến từ đâu không còn giữ yếu tố quan trọng nữa.

Chất Mỹ trong điện thoại Iphone là thiết kế, là chất lượng của hệ điều hành, là dòng chữ designed in California chứ không nhất thiết là mặt kính, viền vỏ hay chất liệu phải do người Mỹ làm. Đi trên một chiếc cầu trên đất Việt Nam, người ta không đặt câu hỏi thép đến từ đâu hay xi măng đến từ nước nào, mà vẫn gọi đó là cây cầu của Việt Nam.

Chất Việt Nam đến từ nhà đầu tư, từ tầm nhìn, từ cam kết chất lượng mang lại và giá trị mang đến cho khách hàng.

Có thể nói Vinfast đã sáng suốt khi đưa ra một trong các thông điệp lần này là Tự hào Việt Nam. Đây là câu trả lời cho giấc mơ xe của người Việt. Ba mươi năm sau mở cửa, thế hệ doanh nhân Việt đời đầu đã có người dám chơi một ván cờ lớn như vậy trên thị trường quốc tế.

Con đường đến vĩ đại

Tuy nhiên, khoảng cách từ Tốt đến Vĩ đại là một thử thách mà thương hiệu non trẻ này phải đối mặt. Lòng tự hào, sự chia sẻ, đồng cảm của cộng đồng không đồng nghĩa với hành động rút hầu bao của người mua thực sự. Ngoài hình ảnh chiếc xe mẫu, người mua cần biết chất lượng vận hành, hệ thống bảo hành, bảo hiểm, sửa chữa, thay thế, thị trường phái sinh sẽ hoạt động như thế nào.

Ngoài ý nghĩa một phương tiện đi lại, chiếc ô tô còn là vật đánh dấu địa vị trong xã hội của chủ nhân chiếc xe, một phương tiện kiếm sống, một thương vụ đầu tư. Đây chính là những câu hỏi cần có câu trả lời qua truyền thông trong thời gian tới.

Chiến dịch truyền thông hiện tại đang khuyết đi một yếu tố quan trọng đó là một tagline định vị cho toàn bộ thương hiệu. Thông điệp dễ nhớ hiện nay đang là: Thương hiệu Việt, công nghệ Đức, thiết kế Ý, giá Nhật hay giá Việt thì còn là một ẩn số.

Sau màn ra mắt tưng bừng, câu chuyện thành công của Vinfast vẫn ở thì tương lai… Ảnh: Internet.

Câu hỏi lớn trong thời gian tới chính là làm thế nào để “thổi hồn” cho thương hiệu này.

Câu hỏi thứ hai chính là bài toán về định vị phân khúc. Vinfast sẽ bán xe bình dân với chất lượng vượt trội để đáp ứng nhu cầu của lớp trung lưu đang ngày càng đông đảo và giải bài toán về giá bán và thói quen của khách hàng. Hay Vinfast sẽ bán xe cao cấp dành cho tầng lớp trên và giải bài toán về đẳng cấp, hình ảnh thương hiệu và đối mặt với những người đang bán công nghệ cho chính mình?

Câu hỏi thứ ba là Vinfast sẽ vận hành tuyến tính như các nhà sản xuất hiện nay khi chạy theo quỹ đạo cổ điển là sản xuất – bán – sản xuất hay sẽ tạo ra một platformgiá trị để cùng thịnh vượng theo nguyên tắc của nền kinh tế chia sẻ, dựa trên hệ sinh thái của mình, cái mà các đối thủ không thể nào có được (?).

Hy vọng sẽ có một thương hiệu Việt đủ mạnh để cạnh tranh với các thương hiệu lớn của thế giới. Hy vọng thương hiệu mới này của Vingroup cũng sẽ tạo ra một cú hích mạnh cho thị trường ô tô xe máy và để làm ra một niềm tự hào mới thực sự cho Việt Nam.

Nguyễn Đình Thành

Các cấp độ làm thương hiệu

Thương hiệu phải bắt nguồn từ sản phẩm. Một sản phẩm tốt là nền tảng quan trọng nhất để đầu tư ngân sách & trí tuệ cho xây dựng thương hiệu.

Trước đây, ba mẹ em có kinh doanh 1 quán chè. Đúng nghĩa bán chè để kiếm sống vì sự tiện lợi, cái gì cũng bán hòng khách đến tiện gì ăn nấy, lúc ấy khách chủ yếu là khách lâu năm (quán chè có từ 1987), nhưng ngày càng ít dần, hoàn toàn ko có giới trẻ đến ăn.

Khi em về và quyết định cải tổ lại quán chè, em bắt đầu định hướng làm thương hiệu với tên tuổi rõ ràng, concept rõ ràng, có thiết kế có nội dung, các món được tập trung, bỏ bớt các món không đem lại doanh thu cao.

Doanh thu tăng gấp đôi và khách hàng mới xuất hiện nhiều hơn, khách hàng là giới trẻ đến cũng nhiều. Đấy, thực tế nhà em cho thấy, dù là 1 cửa hàng thức ăn vỉa hè hay đường phố nếu làm thương hiệu vẫn hơn ạ. Khi đã có thương hiệu rồi thì Ít nhất khi bị thay đổi địa điểm sẽ vẫn giữ được lượng khách hàng cũ của mình.

Đào Trang
Sài Gòn, 2018

Câu chuyện trên phản ánh một góc của thực trạng “làm thương hiệu” của các doanh nghiệp. Sau gần 10 năm với nghề chuyên sâu tư vấn Chiến lược thương hiệu & nhận diện thương hiệu (đặt tên thương hiệu, viết slogan, thiết kế logo), tôi xin trình bày quan điểm cá nhân về đề tài này như sau.

Thương hiệu phải bắt nguồn từ sản phẩm. Một sản phẩm tốt là nền tảng quan trọng nhất để đầu tư ngân sách & trí tuệ cho xây dựng thương hiệu. Bất cứ ngành nghề nào, quy mô nào & hình thức khởi nghiệp nào, sản phẩm luôn là đầu câu chuyện. Truyền thông quảng cáo hay đến mấy cũng không thể thay thế cho một sản phẩm tồi. Tôi chưa bao giờ thay đổi quan điểm này.

Tuy nhiên một sản phẩm tốt không phải khi nào cũng có được thương hiệu tốt. Nguyên lý brand is perceived by customers – thương hiệu được cảm nhận bởi khách hàng sẽ không bao giờ thay đổi, cho dù thế giới chuyển từ cách mạng 1.0, 4.0 hay n.0.

Ba cấp độ làm thương hiệu sau đây sẽ mang lại các hiệu quả hình ảnh thương hiệu, theo đó là giá trị thương hiệu khác nhau. Một lưu ý quan trọng rằng các doanh nghiệp đạt ba cấp độ này đều có mẫu số chung là đều có chất lượng sản phẩm tốt. Nhưng chi phí & mức độ lan toả thương hiệu của họ khác nhau do cách làm và điểm xuất phát khác nhau.

Cấp độ 1

Chỉ lo sản xuất ra sản phẩm thật tốt & danh tiếng đến từ hữu xạ tự nhiên hương. Nguồn lực tài chính, con người tập trung vào sản phẩm, không quan tâm điều gì khác.

Ta mở quán chè. Cốc chè của ta phải ngon hơn, khác lạ hơn, độc đáo về hương vị hơn quán đầu ngõ. Nếu không, ta chỉ bán được cho mấy nhà hàng xóm bên cạnh là cùng.

Khi sản phẩm đã tốt, khách hàng cũ chính là những marketers hiệu quả nhất để lan toả tên tuổi. Trong trường hợp này, chất lượng sản phẩm tốt chính là một cách “làm thương hiệu” rất hữu hiệu. Khi cạnh tranh chưa căng thẳng, thị trường đang mới, khách hàng chưa nhiều lựa chọn thì doanh nghiệp sống khoẻ dù chẳng đầu tư quảng cáo truyền thông.

Vấn đề gặp phải của nhóm này đa số giống nhau một điểm như sau.

Bị đối thủ vượt lên chỉ vì tụt hậu về hoạt động marketing. Điều đáng nói là đối thủ có thể không hơn về sản phẩm, chỉ hơn về cách thức quảng bá về sản phẩm. Tôi xin lấy ví dụ về dự án tư vấn cho một doanh nghiệp Việt khá lâu năm trong ngành sản xuất sơn gia dụng. Ông chủ tịch đã ngậm ngùi nói rằng tuy chất lượng sơn của ông không hề thua kém so với các nhãn sơn nước ngoài như Nippon, Dulux hay My Kolor, nhưng giá luôn thua thiệt vì họ làm quảng cáo hấp dẫn hơn. Các đại lý sơn nói với ông rằng người tiêu dùng quan niệm chất lượng sơn tốt xấu cảm tính lắm, họ không phải là những chuyên gia thẩm định.

Đến sản phẩm mang đậm tính chất kỹ thuật như sơn còn như vậy, chúng ta sẽ hình dung được sản phẩm như chai nước khoáng, lon nước ngọt… vốn na ná nhau về chất lượng sẽ bị chi phối về marketing như thế nào. Marketing vốn là cuộc chiến về cảm nhận.

Truyền miệng không thể một mình thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ truyền tải thông điệp của Starbucks được nữa. Chừng nào chúng tôi không nói rõ mình đại diện cho cái gì, sẽ còn chỗ cho những hoài nghi (CEO của Starbucks).

Cấp độ 2

Làm thương hiệu chất thực sự, nhưng kinh doanh đi trước, thương hiệu theo sau; không chạy song mã từ đầu.

Các doanh nghiệp này tập trung vào kinh doanh một thời gian dài, sau khi thành công rồi mới quay lại chuẩn hoá về thương hiệu.

“Khi em về và quyết định cải tổ lại quán chè, em bắt đầu định hướng làm thương hiệu với tên tuổi rõ ràng, concept rõ ràng, có thiết kế có nội dung, các món được tập trung, bỏ bớt các món không đem lại doanh thu cao”.

Có nhiều doanh nghiệp quy mô lớn hơn nhiều cũng làm tương tự thế này. Làm, sai, điều chỉnh. Tái cấu trúc cơ cấu sản phẩm, ưu tiên nhóm khách hàng mục tiêu. Thu hẹp để mở rộng. Tôi hay gặp và nghe anh chị doanh nghiệp tâm sự: tôi chẳng biết gì về thương hiệu đâu, cứ thay đổi tốt hơn để bán nhiều hàng hơn thôi.

Thực ra họ đang branding khá bền vững – thương hiệu lấy nền tảng kinh doanh làm lõi. Tập trung ưu tiên nhóm khách hàng mục tiêu với nhóm sản phẩm chiến lược. Các chuyên gia Tây ta gọi đó là Brand positioning – định vị thương hiệu.

Khách hàng của RMA là nhóm doanh nghiệp này khá đông: FPT, Sunhouse, Nguyễn Kim, Minh Long, Kids Plaza, Red Sun, Vodka Men, La Siesta, Thaco Trường Hải… đều là những doanh nghiệp chuyên nghiệp, chỉn chu sản phẩm và các founders có tiếng về tâm huyết và tài năng.

Cấp độ 3

Làm chuẩn từ gốc & biết rõ mục đích, phương pháp ngay từ khi khởi nghiệp.

Chủ doanh nghiệp có chiến lược định vị thương hiệu rõ ràng, chuẩn quốc tế (tạm gọi như vậy khi các phương pháp áp dụng giống với đa số các thương hiệu ở Mỹ, Âu áp dụng). Áp dụng ngay từ đầu song song cùng lúc triển khai chiến lược kinh doanh; các mục tiêu và công cụ của thương hiệu bám rễ vào mục tiêu kinh doanh, góp phần hiện thực hoá các mục tiêu này. Các kế hoạch tiếp thị mang tính tác nghiệp (quảng cáo, Pr, content, event, digital performance) đều bám chặt vào big idea (ý tưởng lớn) chiến lược định vị thương hiệu đã chỉ ra trước đó.

Cách làm này có mấy ưu điểm rõ ràng sau:

  • Nội bộ tổ chức từ lãnh đạo đến các bộ phận chức năng (nhất là phòng marketing) hiểu rõ con đường đi từng giai đoạn của lộ trình xây dựng thương hiệu.
  • Không có những hiểu lầm, tranh cãi nội bộ về cách thức & mục tiêu triển khai.
  • Mọi hoạt động tác nghiệp đều xoay quanh một big idea lớn về hình ảnh thương hiệu cần đạt tới.

Các doanh nghiệp cấp độ 3 team RMA đã triển khai: VietJetAir, khu đô thị Sala, Kangaroo, Karofi, dự án biệt thự sinh thái Casamia ở Hội An, Vntrip, Tôm Bắc Cực, yến sào Phú Yên… lớn bé đủ cả.

Cả 3 cấp độ branding trên khác nhau về điểm xuất phát và hiệu quả. Giống nhau về phương châm hành động – lấy sản phẩm & năng lực lõi của doanh nghiệp làm gốc. Sự nghiêm túc của doanh nghiệp cho ra sản phẩm tốt cho xã hội. Cách làm thương hiệu bài bản kết hợp một sản phẩm tốt sẽ sản sinh ra những thương hiệu mạnh, thậm chí một lovemark cho xã hội, cho địa phương, cho quốc gia. Những quốc gia phát triển luôn có những thương hiệu mạnh mang tính toàn cầu, những thương hiệu có hàm lượng brand equity (giá trị thương hiệu) nghiêng về giá trị vô hình lớn hơn tỷ lệ giá trị chức năng hữu hình.

Những quốc gia nào sáng tạo nhất trên thế giới?

Diễn đàn Kinh tế Thế giới vừa công bố danh sách các quốc gia có sức sáng tạo và khả năng đổi mới nhiều nhất trong thời buổi công nghiệp hiện đại.

Dựa trên các tiêu chí như cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế vĩ mô, giáo dục phổ thông và đại học, thị trường hàng hóa và lao động, cũng như sự đổi mới về công nghệ, quy mô thị trường, sự sáng tạo trong kinh doanh…, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) đã công bố danh sách 137 quốc gia theo mức độ đổi mới sáng tạo của từng nước.

Theo đó, Thụy Sĩ là quốc gia có khả năng sáng tạo nhất trên thế giới. Quốc gia Châu Âu này có những cơ quan nghiên cứu khoa học hàng đầu cùng tư duy đổi mới trong mọi phương diện của người dân. Tất cả những yếu tố này giúp Thụy Sĩ đứng đầu bảng xếp hạng của WEF trong suốt 6 năm liên tục.

Các công ty của Thụy Sĩ sẵn sàng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển công nghệ, cũng như có những chương trình hợp tác với các trường đại học để tạo ra môi trường học đường năng động, nơi các sinh viên có thể nghĩ ra những ý tưởng đột phá cho nền khoa học và kinh tế nước nhà.

Hoa Kỳ đứng ở vị trí thứ hai. Quốc gia Bắc Mỹ này có môi trường về sáng tạo, tìm kiếm và phát triển nhân tài, thị trường rộng mở… giống như ở Thụy Sĩ, nhưng sự khó khăn trong việc xin cấp bằng sáng chế khiến nước này bị tụt hạng.

Khoác trên mình một nét cổ kính ngàn năm, Thụy Sĩ ngày nay là một quốc gia tích cực đổi mới sáng tạo trong công nghệ.

Đầu óc thông minh của người Do Thái giúp đất nước Israel đứng thứ ba trong danh sách này. Đất nước Trung Đông này có những cơ sở nghiên cứu chất lượng, và sự chi tiêu mạnh tay trong khu vực tư nhân cũng như chủ động hợp tác với nhà nước về đầu tư và phát triển công nghệ.

Châu Âu chiếm rất nhiều vị trí trong top 10, ngoài Thụy Sĩ còn có Phần Lan, Đức, Hà Lan, Thụy Điển và Đan Mạch. Phần Lan nổi tiếng với lực lượng các nhà khoa học và kỹ sư hùng hậu, trong khi các công ty tư nhân của Đức rất chịu chi cho những sáng chế, chất lượng nghiên cứu khoa học ở mức cao của Hà Lan cũng giúp họ đứng vững trong ngôi đầu bảng xếp hạng.

Nhật Bản và Singapore xếp hạng 8 và 9, cao nhất trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Nhật Bản có lợi thế về số lượng cực nhiều các bằng sáng chế và khoa học ứng dụng trong đời sống, đảo quốc Singapore có một chính phủ sẵn sàng đầu tư hàng triệu đô cho những sản phẩm công nghệ mới mẻ.

Tuy vậy, Nhật Bản và Hàn Quốc đang được đánh giá thấp về khả năng sáng tạo đổi mới, trong khi Ấn Độ, Trung Quốc và Indonesia là hai cái tên đang vươn nhanh chóng trong danh sách này. Khả năng đổi mới là động lực chính thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tốc độ thay đổi công nghệ tạo ra rất nhiều cơ hội vực dậy cả một nền kinh tế.