Monthly Archives: August 2016

Đại học mang lại kiến thức, nhưng tự học tự rèn luyện mới mang lại cho bạn tài sản

Rất nhiều người tin rằng những tấm bằng thạc sỹ hay tiến sỹ là thứ đảm bảo giúp họ trở nên giàu có, nhưng thực tế họ đã nhầm!

Đại học mang lại kiến thức, nhưng tự học tự rèn luyện mới mang lại cho bạn tài sản

Trên thực tế, theo nghiên cứu mới được Wealth-X công bố thì gần 30% số tỷ phú trên thế giới hiện nay không có bằng đại học.

Nghiên cứu được thực hiện bởi Steve Siebold – người dành 3 thập kỷ để nghiên cứu về hơn 1.200 người giàu có bậc nhất thế giới. “Học vị của nhiều người giàu có trên thế giới rất thấp và hầu hết có được khối tài sản khổng lồ thông qua việc sử dụng hiểu biết ở những lĩnh vực cụ thể”.

Tuy nhiên đáng tiếc, “rất nhiều người tin rằng những tấm bằng thạc sỹ hay tiến sỹ là thứ đảm bảo giúp họ trở nên giàu có”, Siebold nói.

Theo Wealth-X thì chỉ 22% những tỷ phú hiện nay có bằng thạc sỹ. 13% có bằng MBA và 10% có bằng tiến sỹ. Thậm chí bằng luật còn có tỉ lệ ít hơn là 3% và bằng y chỉ là 1%.

Nhìn chung, bằng cấp chỉ là bước đệm nhỏ chứ không phải điều kiện cần để giúp bạn trở nên giàu có. Điều quan trọng là phải liên tục tìm ra cách học hỏi thêm ngay cả sau khi đã hoàn thành những bằng cấp chính thống.

“Giáo dục chính thống sẽ giúp bạn sống sót. Tự học và rèn luyện sẽ giúp bạn tạo nên tài sản. Hãy trở thành một sinh viên biết tự học hỏi suốt đời!”

Nhìn chung, có một điểm chung mà rất nhiều người giàu có và thành công đều có đó là họ đều là những người ham đọc sách. Lấy Warren Buffett là ví dụ, người dành 80% thời gian làm việc trong ngày chỉ để đọc hay Bill Gates đọc khoảng 50 cuốn sách một năm.

“Bước vào nhà một người giàu có và thành công điều đầu tiên bạn luôn nhìn thấy là tủ sách khổng lồ họ sử dụng để tự bồi bổ thêm kiến thức, tự tìm ra cách để làm sao trở nên thành đạt, giàu có”, Siebold viết.

Khai thác dầu của Việt Nam, Nga thu về 11 tỷ đô la

Sau 35 năm hoạt động khai thác dầu khi ở Việt Nam, Công ty liên doanh dầu khí Việt – Nga (Vietsovpetro) doanh thu gần 75 tỷ USD, nộp ngân sách nhà nươc gần 47 tỷ USD và nguồn thu cho phía Liêng bang Nga 11 tỷ USD.

Khai thác dầu của Việt Nam, Nga thu về 11 tỷ đô la

ảnh minh hoạ: Nguồn Internet

Thông tin từ Công ty Liên doanh Dầu khí Việt – Nga cho thấy, 6 tháng đầu năm, Vietsovpetro đã khai thác 2,5 triệu tấn dầu, cung cấp 906 triệu m3 khí vào bờ. Doanh thu 6 tháng đạt 763 triệu USD, nộp ngân sách nhà nước 423 triệu USD. Lợi nhuận phía Nga đạt 72,5 triệu USD, phía Việt Nam là 75,5 triệu USD.

Vietsovpetro dự kiến, năm 2016, với sản lượng khai thác vượt 5 triệu tấn dầu, giá trung bình mỗi thùng khoảng 45 USD, doanh thu của Vietsovpetro sẽ ở mức 1,7 USD. Lợi nhuận của việt Nam nhận về khoảng 129 triệu USD, Nga nhận về là 124 triệu USD.

Tổng kết trong 35 năm qua, Vietsovpetro đã khai thác được 220 triệu tấn dầu thô, doanh thu bán dầu đạt trên 74 tỷ USD. Nộp ngân sách nhà nước gần 47 tỷ USD. Và Liên bang Nga thu lợi nhuận khoảng 11 tỷ USD.

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng ghi nhận và nhiệt liệt biểu dương thành tích của các thế hệ cán bộ, chuyên gia, công nhân lao động Vietsovpetro đã đạt được trong suốt 35 năm qua.

Trong thời gian tới, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng khẳng định cam kết của Chính phủ Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi để Vietsovpetro tiếp tục hoạt động ổn định, hiệu quả.

Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, với vai trò là ngành kinh tế chủ lực trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, Vietsovpetro cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác tìm kiếm, thăm dò để gia tăng trữ lượng dầu khí, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng, đẩy mạnh xuất khẩu và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Trong đó, ưu tiên tìm kiếm, thăm dò ở các vùng nước sâu, xa bờ trên thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam…

Dìm giá nhau tới chết là chiến thuật rất phổ biến của DN Việt Nam, và đây là hướng dẫn chi tiết để chống lại nó!

Trong trận chiến tranh giành khách hàng, doanh nghiệp sẽ sử dụng đủ loại chiến thuật để loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Dần dần, chiến lược cạnh tranh về giá trở thành một vũ khí ưa thích của các nhãn hàng khi muốn loại bỏ đối thủ. Kể từ đây, cuộc chiến giá cả (Price War) chính thức trở thành nỗi ám ảnh của nhiều doanh nghiệp.

Dìm giá nhau tới chết là chiến thuật rất phổ biến của DN Việt Nam, và đây là hướng dẫn chi tiết để chống lại nó!

Hạ giá thành để thu hút người mua là điều bình thường đối với các thương hiệu, nhưng sự trả đũa liên tiếp của các công ty nhằm hạ giá thành sản phẩm và triệt hạ đối thủ sẽ chỉ dẫn đến suy giảm lợi nhuận trong toàn ngành.

Lấy ví dụ cuộc chiến giá cả năm 1992 giữa các hãng hàng không Mỹ. Trong khi những hãng hàng không như American Airlines, Northwest Airlines và nhiều hãng khác đua nhau từng chút một trong việc cạnh tranh giá vé, lượng người sử dụng dịch vụ vận chuyển này tại Mỹ tăng kỷ lục. Tuy nhiên, điều trớ trêu là khoản lỗ của các công ty hàng không cũng tăng kỷ lục theo.

Một số báo cáo chỉ ra rằng tổng thiệt hại của ngành hàng không Mỹ năm 1992 còn cao hơn tổng lợi nhuận của toàn ngành kể từ khi mới thành lập.

Một cuộc chiến giá cả có thể gây ra các yếu tố tiêu cực về kinh tế cũng như tạo nên tâm lý bi quan cho lợi nhuận của công ty cũng như toàn ngành kinh tế. Cho dù người thắng sau cùng là ai, tình hình của công ty đó chắc chắn sẽ tồi tệ hơn rất nhiều so với trước khi tham chiến.

Tồi tệ hơn, chiến tranh giá cả hiện đang diễn ra khốc liệt dưới cả 2 dạng phổ biến và không phổ biến. Hãy cùng xem xét 2 ví dụ dưới đây:

-Tháng 7/1999, hãng dịch vụ điện thoại đường dài Sprint của Mỹ hạ giá thành gọi đường dài qua đêm xuống 5 cent/phút. Đến tháng 8 cùng năm, hãng đối thủ là MCI cũng hạ giá thành giống như Sprint và đến cuối tháng đó, một công ty đối thủ nữa là AT&T cũng buộc phải hạ giá xuống 7 cent/phút.

Giá cổ phiếu của AT&T giảm 4,7% ngay sau thông báo hạ giá cước trên, còn cổ phiếu MCI giảm 2,5%, cổ phiếu của Sprint giảm 3,8%.

– Thương mại điện tử và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ tài chính khi hạ giá thành môi giới cũng như phí dịch vụ. Trong vài năm qua, phí dịch vụ ngành tài chính đã liên tục hạ từ 30 USD xuống 8 USD (số liệu bởi HBR).

Trong ví dụ thứ nhất, rõ ràng là các đối thủ trong ngành điện thoại đường dài đang có cuộc chiến về giá và việc hạ giá cước là vũ khí chính của các công ty nhằm triệt hạ đối phương.

Tại trường hợp này, những yếu tố như chất lượng dịch vụ, giá trị thương hiệu hay những thành phần ngoài giá cả khác không ảnh hưởng nhiều đến cuộc chiến về giá. Hầu như các biện pháp cạnh tranh của những công ty này là hạ giá và tiếp tục hạ giá để trả đũa đối thủ.

Xét ví dụ thứ 2, cuộc chiến giá cả đã diễn ra nhưng theo chiều hướng tinh tế hơn. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và thương mại điện tử đã dẫn thay đổi chi phí dịch vụ của ngành tài chính. Những ông lớn như Merrill Lynch hay American Express nhận ra sự thay đổi này và quyết định tái cơ cấu, đưa dịch vụ điện tử miễn phí vào phục vụ khách hàng cấp cao và hạ phí môi giới.

Rõ ràng, những công ty này chủ động tham gia cuộc chiến giá cả trước sự thay đổi của xu thế thị trường chứ không bị động trả đũa như ví dụ 1. Hơn nữa, ngoài giá cả, chất lượng dịch vụ và danh tiếng cũng có tác động đễn cuộc chiến về giá trong ví dụ thứ 2 hơn.

Hầu hết các nhà quản lý, giám đốc đều sẽ phải tham gia vào một cuộc chiến giá cả trong sự nghiệp của họ. Mỗi lần quyết định giảm giá sản phẩm của bất kỳ công ty lớn nào đều có thể khơi mào nên cuộc chiến về giá khi các đối thủ cạnh tranh đua nhau trả đũa, dẫn đến một đợt hạ giá toàn diện.

Đây là lý do vì sao các nhà quản lý cần cân nhắc rất kỹ trước khi quyết định giảm giá hoặc trả đũa đối thủ khi bị mất lợi thế về giá.

Phân tích tình hình

Thông thường, chiến tranh giá cả bắt đầu khi một công ty cho rằng mức giá thị trường hiện nay quá cao, hoặc họ có thể chấp nhận bán giá thấp hơn với chi phí nhất định để giành thị phần.

Với lợi thế nhanh chóng, dễ dàng và có thể dừng bất kỳ lúc nào, chiến thuật cạnh tranh về giá đang ngày càng được nhiều nhà quản lý áp dụng với mục đích riêng. Đặc biệt, khi sự kết nối giữa các doanh nghiệp ở mức yếu, một cuộc chiến về giá có thể xảy ra rất dễ dàng và leo thang rất nhanh chóng.

Để đối phó với chúng, nhà quản lý cần phải tìm hiểu động cơ cũng như những tính chất của trận chiến nhằm đưa ra các giải pháp đối phó cũng như trước khi quyết định có tham chiến hay không.

Bước đầu tiên, các nhà quản lý cần phân tích rõ ràng tình hình. Lấy ví dụ một nhà cung cấp địa phương đột nhiên phát hiện đối thủ của họ hạ giá bán thấp hơn chi phí kinh doanh mà công ty này có thể chịu đựng. Mặc dù công ty này có thể hạ giá để trả đũa và chấp nhận chịu thiệt nhằm bảo vệ thị phần nhưng điều này sẽ dẫn đến tình trạng thua lỗ cho doanh nghiệp.

May mắn thay, công ty đã gọi vài cuộc điện thoại và phát hiện ra đối thủ hạ giá tại địa phương nhưng nâng giá ở chỗ khác nhằm triệt hạ công ty và tạo nên chiến tranh giá cả.

Trước tình hình đó, công ty công bố thông tin về việc đối thủ nâng giá ở thị trường khác là để khơi mào chiến tranh giá cả tại khu vực của họ nhằm thu hút sự ủng hộ của người tiêu dùng. Đồng thời công ty cũng kêu gọi sự ủng hộ của người tiêu dùng nhắm chống lại kế hoạch độc chiếm thị trường và cảnh báo nếu người tiêu dùng không can thiệp, động thái giảm giá ngắn hạn sẽ trở thành tăng giá trong dài hạn.

Thông thường, các nhà quản lý cần nhìn nhận và phân tích xu thế của thị trường trước các biến động về giá cả, đồng thời nắm chắc được những nguồn lực mà công ty có để có thể phản ứng lại trước những đợt tấn công về giá của đối thủ.

Hiện có 4 yếu tố chính có thể ảnh hưởng đến cuộc chiến giá cả mà nhà quản lý cần quan tâm. Đầu tiên là yếu tố khách hàng, bao gồm cảm nhận về giá của người tiêu dùng và khả năng thay đổi thị phần nếu giá cả biến động.

Tiếp theo là yếu tố về nội tại công ty, bao gồm cấu trúc chi phí, vốn và chiến thuật kinh doanh của doanh nghiệp. Sau đó là yếu tố về đối thủ, tương tự bao gồm cấu trúc chi phí, vốn và chiến thuật kinh doanh của họ.

Cuối cùng, các giám đốc cần xem xét yếu tố người chơi khác trong toàn ngành. Liệu có đối thủ mới nào sẽ tham chiến hay không? Liệu các công ty khác trong ngành có được lợi khi chiến tranh giá cả xảy ra? Liệu lợi ích của toàn ngành sẽ bị ảnh hưởng ra sao nếu tham chiến?

Khi các doanh nghiệp xem xét kỹ lưỡng các yếu tố trên, họ có thể nhận ra mình có rất nhiều biện pháp để đối phó với một cuộc chiến về giá, bao gồm hòa giải và hợp tác giữa 2 bên, mở rộng chiến trường ra nhiều mặt trận nhằm làm mờ ảnh hưởng của chiến tranh giá cả, hoặc thậm chí rút lui chiến lược để đạt lợi ích to lớn hơn.


Cuộc chiến giá cả giữa 2 đại gia dầu khí là Ả Rập Xê Út và Mỹ đang gây thiệt hại cho cả đôi bên

Cuộc chiến giá cả giữa 2 đại gia dầu khí là Ả Rập Xê Út và Mỹ đang gây thiệt hại cho cả đôi bên

Dừng cuộc chiến trước khi nó bắt đầu

Có nhiều cách để dừng cuộc chiến về giá trước khi nó bắt đầu. Một trong số đó là khiến cho các đối thủ của bạn hiểu rõ chính sách về giá của công ty, hay nói cách khác là tiết lộ cho đối thủ về ý định thật sự trong chiến lược giá thành sản phẩm.

Việc hạ giá của công ty cùng những tuyên bố khuyến mãi, thu hút khách hàng có thể khiến đối thủ lo lắng và gây hiểu lầm rằng bạn đang khơi mào chiến tranh giá cả.

Bằng việc kết nối tốt hơn với các đối thủ cũng như cho họ thấy rõ ý định muốn cạnh tranh bằng các phương thức khác hơn là về giá có thể giúp doanh nghiệp tránh được thảm họa chiến tranh giá cả, vốn bòn rút lợi nhuận của cả 2 bên.

Nếu đổi thủ của bạn hiểu rằng công ty không có ý định khơi mào chiến tranh giá cả và đồng ý rằng cuộc chiến như vậy chỉ gây thiệt cho cả 2, có thể họ sẽ tuân thủ luật chơi.

Ví dụ như chuỗi siêu thị Big Star tại Bắc Carolina- Mỹ tuyên bố sẽ giữ giá ngang hoặc thậm chí cao hơn đối thủ Food Lion. Động thái này khiến cả 2 đối thủ trên thị trường ngừng cạnh tranh về giá. Tuyên bố của Big Star khiến Food Lion nhận ra chiến tranh giá cả không có lợi cho cả đôi bên và chấp nhận cạnh tranh trên phương diện khác.

Kết quả là sau 2 năm, mức giá cân bằng của 79 sản phẩm thông dụng tại Bắc Carolina đã tăng mạnh. Hãng Food Lion đã quyết định ngừng cạnh tranh về giá và thậm chí nâng giá bán ngay sau tuyên bố của Big Star.

Ngoài ra, công ty có thể tiết lộ chi phí sản xuất của mình nhằm cảnh cáo đối thủ về hậu quả khi họ khai chiến về giá, nhưng cách làm này có thể khiến lợi thế về giá của bạn bị ảnh hưởng cũng như tác động phần nào đến uy tín của công ty.

Ví dụ như chuỗi cửa hàng bán thực phẩm Sara Lee nổi tiếng tại Mỹ với chi phí đầu vào vô cùng thấp, nhưng mức giá bán tại các chi nhánh của chuỗi siêu thị này lại khá cao so với nhiều đối thủ. Trong trường hợp chiến tranh giá cả xảy ra, công ty này vẫn đủ khả năng tham chiến và điều này được Sara Lee phổ biến rộng rãi, qua đó cảnh cáo các đối thủ khi họ muốn gây chiến.

Những nhà quản lý của Sara Lee nhận ra rằng động thái giảm giá không phù hợp với chiến lược kinh doanh thiên về thương hiệu của hãng. Vì vậy, thay vì tận dụng chi phí thấp để cạnh tranh về giá, hãng lại dùng yếu tố này như quân bài cảnh cáo các đối thủ trước nguy cơ khơi mào chiến tranh giá cả.

Mặc dù lợi thế về chi phí khiến doanh nghiệp có vị thế tốt hơn trong chiến tranh giá cả về dài hạn, nhưng các công ty cũng nên cân nhắc chiến lược vị thế của mình trước khi tham gia chiến tranh giá cả. Nếu họ thiên về giữ “giá” cho thương hiệu thì giảm giá cạnh tranh không phải quyết định khôn ngoan khi thay đổi cách nhìn của người tiêu dùng với nhãn hàng cũng như kéo công ty vào cuộc chiến không có lợi nhuận.

Khối lượng tiền trong nền kinh tế Việt Nam tăng đột biến

Tính đến 29/7, khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế tăng đột biến, lên 9,45%. Trong khi đó các năm trước, khối lượng tiền tệ này chỉ tăng trưởng ở mức 6,3% – 7,5%. Cá biệt vào năm 2011, thời điểm lạm phát Việt Nam tăng lên 2 con số, mức tăng này chỉ ở 3,57% so với cùng kỳ năm trước.

Khối lượng tiền trong nền kinh tế Việt Nam tăng đột biến

Ngân hàng Nhà nước cho biết, tình hình huy động tín dụng và tổng phương tiện thanh toán cùng tăng khá cao trong 7 tháng đầu năm nay.

Bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết: Tính đến 29/7, tổng phương tiện thanh toán (M2*) tăng 9,45% so với cùng kỳ.

9,45% là mức tăng trưởng đột biến của M2 trong những năm qua.

Các năm trước, M2 chỉ tăng trưởng ở mức 6,3% – 7,5%. Cá biệt vào năm 2011, thời điểm lạm phát Việt Nam tăng tới gần 19%, mức tăng này chỉ ở 3,57% so với cùng kỳ năm trước.

Bên cạnh mức tăng đột biến của tổng phương tiện thanh toán, huy động vốn tăng 9,94% (huy động bằng VND tăng 12,28%, bằng ngoại tệ giảm 6,25%), tín dụng tăng 8,54%.

Thanh khoản của tổ chức tín dụng tiếp tục được đảm bảo và có dư thừa, mặt bằng lãi suất liên ngân hàng giảm so với cuối năm trước; nhà điều hành đã mua được lượng lớn ngoại tệ để gia tăng dự trữ ngoại hối…

Với chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 6,7%, Ngân hàng Nhà nước đã đặt ra mục tiêu điều hành xuyên suốt kiểm soát lạm phát hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu đề ra nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn hệ thống, với định hướng tín dụng tăng 18%, tăng trưởng phương tiện thanh toán 18-20%.

Để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế đạt mức 6,7% thì nguồn vốn đầu tư bao gồm rất nhiều nguồn không chỉ nguồn từ ngân hàng mà còn từ nguồn ngân sách nhà nước và nước ngoài. Chính phủ quyết tâm thực hiện tăng trưởng kinh tế 6,7%, và Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh giải ngân ngân sách nhà nước nên các Bộ ngành đẩy mạnh giải ngân nguồn vốn này.

Nguồn vốn FDI theo số liệu của Bộ kế hoạch đầu tư 7 tháng đầu năm 2016 dòng vốn FDI thực hiện đạt 8,67 tỷ USD Mỹ gần gấp đôi mức tăng cùng kỳ năm ngoái. Với quyết tâm của Chính phủ hỗ trợ kinh doanh và tạo môi trường đầu tư thì chắc chắn nguồn vốn đầu tư nước ngoài và đặc biệt là FDI sẽ gia tăng trong thời gian tới.

(*) Trong hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, theo Tổng cục Thống kê, tổng phương tiện thanh toán (M2) phản ánh khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế tại một thời điểm nhất định, giúp các nhà hoạch định chính sách có thể theo dõi, đánh giá diễn biến khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, từ đó đưa ra quyết định việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, kiểm soát cung ứng tiền tệ, duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đòi không nổi, Bộ Tài chính đề nghị xóa nợ, khoanh nợ 15.000 tỷ đồng tiền thuế cho DN

Bộ Tài chính đang đề xuất xóa nợ gần 8.000 tỷ đồng và khoanh nợ gần 7.000 tỷ đồng cho một số đối tượng doanh nghiệp gặp khó khăn.

Đòi không nổi, Bộ Tài chính đề nghị xóa nợ, khoanh nợ 15.000 tỷ đồng tiền thuế cho DN

Ảnh minh họa.

Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính) vừa đính chính lại thông tin xóa nợ, khoanh nợ cho người nộp thuế liên quan đến Dự thảo Nghị quyết về một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp.

Theo đó, Đại diện Tổng cục Thuế khẳng định, số tiền đề xuất để xóa nợ, chậm nộp và phạt người nộp thuế là gần 8.000 tỷ đồng chứ không phải là 15.000 tỷ đồng như một số thông tin gần đây.

Con số gần 7.000 tỷ đồng còn lại là số tiền khoanh nợ cho những trường hợp thực tế đã giải thể, phá sản, bỏ kinh doanh theo đề xuất là 6.731 tỷ đồng, việc khoanh nợ là tạm thời không tính tiền chậm nộp để theo dõi do các đối tượng này gặp khó khăn chứ không phải là xóa nợ.

Trong số 8.000 tỷ đồng xóa nợ, hơn 7.421 tỷ đồng là số nợ, chậm nộp và tiền phạt đề nghị xóa do người nộp thuế thực tế đã giải thể, phá sản, bỏ kinh doanh trước ngày 1/1/2014.

Ngoài ra, hơn 542 tỷ đồng là tiền chậm nộp đối với doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán bằng vốn ngân sách Nhà nước hoặc có nguồn chi từ ngân sách Nhà nước nhưng chưa được Nhà nước thanh toán.

Những ai được xóa nợ, khoanh nợ?

Theo đề xuất của Tổng cục thuế:

– Xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của doanh nghiệp, tổ chức, hộ, cá nhân kinh doanh thực tế đã giải thể, phá sản hoặc bỏ kinh doanh trước ngày 01/01/2014

– Khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với doanh nghiệp, tổ chức, hộ, cá nhân kinh doanh thực tế đã giải thể, phá sản hoặc bỏ kinh doanh trong giai đoạn từ 01/01/2014 đến 31/12/2015.

Các đối tượng này được mở rộng hơn so với 3 đối tượng được xóa nợ trước đó. Theo Luật quản lý thuế và Luật quản lý thuế sửa đổi, đối tượng được xóa nợ gồm:

– Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của pháp luật phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt;

– Cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt còn nợ;

– Các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của người nộp thuế không thuộc 2 trường hợp trên mà cơ quan quản lý thuế đã áp dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế và các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt này đã quá 10 năm, kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, nhưng không có khả năng thu hồi.

Việc bổ sung đối tượng xóa nợ, khoanh nợ, theo đánh giá của Tổng cục Thuế, do nhiều người nộp thuế kinh doanh thua lỗ, lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, phải ngừng hoạt động hoặc thậm chí giải thể, phá sản nhưng không thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục giải thể, phá sản.

Bởi vậy, số nợ thuế đã phát sinh từ trước thời điểm mất khả năng thanh toán bị tính tiền chậm nộp ở mức 0,05%/ngày (18,3%/năm) liên tục tăng thêm trong khi người nộp thuế đã không còn hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoặc đã giải thể, phá sản.

Ngoài ra, nhiều người nộp thuế cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán bằng vốn ngân sách Nhà nước hoặc có nguồn từ ngân sách Nhà nước nhưng chưa được thanh toán nên không có nguồn nộp kịp thời nhưng vẫn bị tính tiền chậm nộp tiền thuế.