Category Archives: Bussiness

Vì sao CEO nên “xóa mù” mạng xã hội?

Giáng sinh 2016, CEO dịch vụ đặt phòng, căn hộ Airbnb Brian Chesky đã làm một điều bất thường, đó là dành nhiều giờ trên Twitter để thực hiện một nghiên cứu thị trường, có thể giúp cho các chiến lược của công ty trong năm 2017.

Anh bắt đầu bằng câu hỏi đơn giản: Nếu @Airbnb ra mắt thứ gì đó năm 2017, nó sẽ là gì?

Hàng trăm ý tưởng được gửi đến, từ các sản phẩm dễ hiện thực hóa như bổ sung dịch vụ lau dọn, đặt bữa cho đến nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp như giảm tình trạng phân biệt đối xử, quyên góp từ thiện nhiều hơn. Thậm chí, có người còn đề xuất dịch vụ cho thuê trên… Sao Hỏa.

Người dùng Twitter không bỏ lỡ cơ hội đưa ra gợi ý của mình và quan trọng hơn, họ biết rằng suy nghĩ đó đang được lắng nghe, đánh giá bởi người đưa ra quyết định cuối cùng của công ty. Còn phải xem nghiên cứu của Chesky hiệu quả đến đâu, song động thái có lẽ đã làm cho lòng trung thành với nhãn hiệu tăng lên.

Câu chuyện này dạy cho chúng ta bài học CEO dùng mạng xã hội để củng cố nhận thức nhãn hiệu đối với công chúng như thế nào, nó đồng thời truyền tải thông điệp mạnh mẽ rằng các lãnh đạo biết giao tiếp tốt trên mạng xã hội bộc lộ nhiều ưu điểm, khiến họ trở thành người cầm quân tốt hơn.

Trong nghiên cứu High Resolution Leadership của DDI, kỹ năng lãnh đạo của 250 ứng cử viên được phân tích và đối chiếu với hoạt động của họ trên mạng xã hội. Kết quả cho thấy, so với những người đồng cấp không tích cực trên mạng, các ứng cử viên còn lại: tốt hơn 89% trong việc trao quyền cho người khác; tốt hơn 52% trong thuyết phục; 46% có ảnh hưởng hơn; 36% nuôi dưỡng mạng lưới tốt hơn; 19% đam mê hơn và 16% ra quyết định tốt hơn.

Hình bản quyền bởi StockUnlimited.

Ngoài việc cho thấy hành vi lãnh đạo mạnh mẽ, các ứng cử viên CEO mạng xã hội cũng có các điểm tương đồng về tính cách để đưa ra phán xét tốt hơn. Không ngạc nhiên khi họ có tính xã hội cao hơn và tương tác với người khác nhiều hơn. Họ cũng ít tranh cãi, ít né tránh, có khuynh hướng hành động hơn. Họ không cố trở nên hoàn hảo, tránh được các sai lầm nhỏ trong quản lý hoặc chỉ trích người khác quá đáng. Tuy nhiên, nhược điểm là họ có xu hướng tìm kiếm sự chú ý hơn người khác, tức là yêu cầu phản hồi nhiều hơn.

Bất chấp mối liên hệ tích cực giữa lãnh đạo và hiện diện trên mạng xã hội, các CEO ngày nay còn khá e dè với mạng xã hội. Trong phân tích 100 CEO có năng lực nhất của Harvard Business Review, ngay cả tiêu chí thấp nhất để được cho là “có tính chất xã hội” là có ít nhất một bức ảnh đại diện và kết nối trên LinkedIn và/hoặc Twitter, kết quả khá thất vọng: chỉ 20% CEO làm được.

Trong số này, 18 dùng LinkedIn, 7 dùng Twitter và chỉ có 4 dùng cả 2 nền tảng. Tương tự, các nhà nghiên cứu của Đại học Bắc Calirona cho hay, chỉ có khoảng 8% đang dùng Twitter và khoảng 70% chủ động cập nhật.

Trong tương lai, mạng xã hội sẽ là lĩnh vực quyền lực, giúp các công ty xác định được CEO nào đã chuẩn bị kỹ càng để điều hành doanh nghiệp.

Du Lam / CNBC
* Nguồn: ICT News

Tăng trưởng của ngành hàng tiêu dùng nhanh trong quý 1/2017 đạt mức cao kỷ lục nhờ vào mùa Tết

Ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) toàn quốc trong quý đầu tiên của năm 2017 đã đạt mức tăng kỷ lục trong suốt vài năm trở lại đây, với mức tăng trưởng dương, đạt 9.6% so với mức tăng trưởng 5.3% cùng kỳ năm trước.

Điều này được ghi nhân là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong ba năm qua. Sự tăng trưởng này chủ yếu đến từ mức tăng 8.5% từ tăng trưởng sản lượng, theo báo cáo Market Pulse Qúy 1, được công bố bởi Nielsen Việt Nam – công ty toàn cầu về thông tin và đo lường hiệu quả kinh doanh.

Báo cáo Market Pulse của Nielsen dựa trên kết quả đo lường bán lẻ của ngành hàng tiêu dùng nhanh, trên những nhóm sản phẩm chính, để theo dõi liên tục việc lưu thông sản phẩm thông qua các kênh thương mại và cửa hàng bán lẻ được xác định. Các chỉ số bán lẻ được sử dụng sử dụng trong bài viết cho thấy nỗ lực của nhà sản xuất và các nhà bán lẻ cũng như sức tiêu thụ của người tiêu dùng.

Theo báo cáo, khi quan sát tổng quan ở 6 ngành hàng lớn (nước uống-bao gồm bia, thực phẩm, sữa, sản phẩm chăm sóc gia đình, sản phẩm chăm sóc cá nhân và thuốc lá) sự phục hồi tăng trưởng đang diễn ra ở tất cả các ngành hàng. Đặc biệt, có 3 trong số 6 ngành hàng lớn đã có sự tăng trưởng 2 chữ số trong quý này. Những ngành hàng lớn đó là Thực Phẩm, Sản Phẩm Chăm Sóc Gia Đình và Sản Phẩm Chăm Sóc Cá Nhân, với 13.9%, 12.4% và 12.2% tương ứng. Theo sau, ngành hàng Sữa đạt mức tăng trưởng 10.3% và ngành hàng Nước Uống đạt 9.1%. Cuối cùng, Thuốc Lá tăng 5.6% trong quý này.

Đáng chú ý, ngành hàng Nước Uống tiếp tục là ngành hàng dẫn đầu trong việc đóng góp vào doanh số FMCG trong quí này, đóng góp khoảng 45% doanh số. Thuốc Lá và Thực Phẩm đóng góp vào tổng doanh số khoảng 19% và 13% tương ứng.

“Tin vui là tiêu dùng trong mùa Tết đã đạt được mức tăng cao kỷ lục trong nhiều năm. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần phải chú ý đến sự tăng trưởng của ngành hàng tiêu dùng nhanh trong năm 2017. Sau khi tăng trưởng ấn tượng mức 18,7% vào tháng Giêng âm lịch, sự tăng trưởng của tháng Hai và tháng Ba đã giảm xuống chỉ còn 8,6% và 2,1% tương ứng. Đây có thể là một dấu hiệu sớm của sự chậm lại, hoặc chỉ là do mùa thấp điểm sau Tết.” ông Nguyễn Anh Dũng, Giám Đốc, Trưởng Bộ Phận Dịch Vụ Đo Lường Bán Lẻ Nielsen Việt Nam cho biết.

Vùng nông thôn đã được nhắc đến như là một nguồn tăng trưởng mới cho nhiều nhà sản xuất. Câu chuyện này một lần nữa được nhìn thấy rõ rệt trong quý đầu tiên của năm 2017. Báo cáo cũng cho thấy rằng vùng nông thôn tăng mạnh trở lại trong quý này ở mức 12.4%, đóng góp 51% vào tổng doanh thu ngành hàng tiêu dùng trên toàn quốc, trong khi khu vực thành thị chỉ tăng ở mức 6.5%. Điểm sáng trong báo cáo lần này là sự tăng trưởng của cả khu vực thành thị và vùng nông thôn chủ yếu đến từ tăng trưởng sản lượng.

“Mặc dù khu vực nông thôn đã tăng trưởng chậm lại do sự bất lợi về thời tiết và những thách thức trong năm vừa qua, nhưng thực tế cho thấy sự tăng trưởng trong nông thôn đã phục hồi trở lại với sự tăng trưởng ở tất cả các ngành hàng lớn” ông Dũng nhấn mạnh. “Vẩn có hơn 60% dân số Viêt Nam sống ở khu vực nông thôn và có rất nhiều cơ hội cho các nhà sản xuất ở thị trường này. Người tiêu dùng nông thôn đang có mức thu nhập tăng lên và có tiếp cận tốt với nhiều thông tin hơn thông qua việc kết nối với internet, điện thoại thông minh để biết thêm thông tin sản phẩm và chất lượng. Với tầm quan trọng của thị trường nông thôn, các nhà sản xuất nên nắm bắt cơ hội ở thị trường này bằng cách trang bị cho mình những kiến ​​thức cập nhật về thị trường mới nổi này như nhu cầu của người tiêu dùng và xu hướng thị trường”.

* Nguồn: Nielsen

IBM mở lối đi riêng cho digital marketing

Vào tháng 3/2017, Gartner đánh giá IBM iX là đơn vị dẫn đầu trong các công ty marketing kỹ thuật số toàn cầu. iX là một bộ phận được thành lập nhằm mở ra một hướng marketing mới trên nền tảng công nghệ thông tin của IBM.

Theo Business Insider, Gartner đánh giá cao IBM iX cho sự nhanh nhẹn, hợp tác, khả năng sáng tạo, thiết kế mạnh mẽ và chuyên môn trong phân tích dữ liệu. Sau 2 năm thành lập, IBM iX đã có mặt tại Bắc Mỹ, châu Âu, Trung Đông, châu Phi và châu Á – Thái Bình Dương với hơn 15.000 nhân viên. Khách hàng của iX gồm Volkswagen, Nestle, Unilever, Audi và General Motors.

Gã khổng lồ sang ngang

Bộ phận mới IBM iX đã tạo ra những luồng dư luận quan tâm trong lĩnh vực quảng cáo năm 2016 bằng việc mua lại 3 công ty quảng cáo gồm Ecx.io, Resource Ammirati và Aperto trong vòng một tuần.

Paul Papas

Ông Paul Papas – Giám đốc Toàn cầu của iX.

Trong bài phỏng vấn với Business Insider, Alison Clark – phụ trách Quan hệ Đối tác của iX cho biết: “iX không muốn hoạt động giống như cách các công ty quảng cáo truyền thống. Thay vào đó, iX muốn kết hợp các bộ phận IT của Công ty IBM và ứng dụng vào lĩnh vực sáng tạo”.

Theo hướng này, các công việc sáng tạo của doanh nghiệp sẽ được kết nối với các mảng kinh doanh khác của công ty. Đồng thời khách hàng chỉ cần quản lý tất cả thông qua một đối tác bên ngoài duy nhất. Đây cũng là lý do phần đông khách hàng tìm đến với iX.

Chia sẻ với Business Insider, Paul Papas – Giám đốc Toàn cầu của iX cho biết cách IBM iX hợp tác với đội bóng rổ Toronto Raptors là một ví dụ tốt về cách công ty quảng cáo tạo ra toàn bộ trải nghiệm cho ngành kinh doanh.

Sử dụng nền tảng nhận thức điện toán Watson và công nghệ màn hình cảm ứng của IBM, iX đã thay đổi cách Raptors quản lý các tuyển thủ. Cụ thể, các thành viên và đội ngũ quản lý của Raptors có thể đứng xung quanh trên một chiếc bàn có màn hình cảm ứng. Tại đây, họ có thể phân tích các thông số thực tế khác nhau giữa từng cầu thủ cũng như xem các kịch bản tình huống thiết lập khác nhau.

Raptors cũng áp dụng công nghệ này để xác định các vấn đề về tiền lương, thời hạn hợp đồng và các kết nối với người hâm mộ của đội bóng

Sự dịch chuyển về hướng các sản phẩm sáng tạo là điều tự nhiên của IBM, công ty vốn đã là một trong những nhà cung ứng hàng đầu trong thị trường phần mềm marketing đám mây và hệ thống quản lý khách hàng (CRM).

Đi ngược đám đông

Clark cũng cho biết iX đi ngược với các công ty quảng cáo truyền thống trong hợp tác với khách hàng. Theo đó, iX ưu tiên các khách hàng đến từ mảng dịch vụ IT của IBM để tránh các buổi thuyết trình đấu thầu phổ biến hiện tại giữa các công ty quảng cáo truyền thống.

Cùng với đó, iX cũng không tuyển các cá nhân muốn được làm việc tại IBM như thông thường. Bộ phận này chỉ tuyển các chuyên gia sáng tạo từ các công ty quảng cáo thuộc nhóm năm công ty quảng cáo và thiết kế lớn của thế giới.

Clark từng làm việc tại công ty quảng bá thương hiệu RAPP, do WPP sở hữu; trước đó cô là quản lý đối tác tại Havas Helia. Giám đốc Marketing Kỹ thuật số đầu tiên của IBM – Bob Lord được tuyển về từ công ty quảng bá thương hiệu nổi tiếng của Pháp là Razorfish, thuộc sở hữu của Publicis. Tại IBM, Bob làm việc trực tiếp với CEO Ginni Rometty và khởi xướng xu hướng phát triển mới tập trung vào trí tuệ nhân tạo.

Đầu năm nay, IBM tuyên bố sẽ sử dụng hệ thống trí thông minh nhân tạo Watson cho các khách hàng mua gói quảng cáo hiển thị tự động. Với tất cả những nền tảng công nghệ hiện tại, điều duy nhất IBM cần chính là khả năng sản xuất các sản phẩm sáng tạo, và đây chính là mảng iX đảm nhiệm.

Thep Papas, câu chuyện kinh doanh hiện tại không còn là cuộc chơi của phát triển sản phẩm, mà doanh nghiệp phải cung cấp những trải nghiệm tương xứng cho khách hàng, đối tác kinh doanh và nhân viên.

IBM không phải là đơn vị duy nhất nhận ra nhu cầu áp dụng kỹ thuật số vào công ty quảng cáo từ các doanh nghiệp khách hàng. Công ty quảng cáo có trụ sở đặt tại Pháp, Publicis Groupe, là một ví dụ, đã mua lại công ty tư vấn marketing kỹ thuật số của Mỹ là Sapient với giá 3,7 tỷ USD vào năm 2014. Thương vụ này nhằm xây dựng nền tảng lớn nhất và tối ưu nhất trong chuyển đổi công nghệ marketing hiện tại.

“Các công ty quảng cáo đang cố gắng tìm hiểu về kỹ thuật số. Các công ty tư vấn truyền thống thì đang cố tìm hiểu về sáng tạo và thiết kế. Còn chúng tôi thì xây dựng cả hai điều đó từ điều mình có”, Papa cho biết.

Lâm Nghi / Business Insider
* Nguồn: Doanh Nhân Sài Gòn

Phía sau sự đi lên của lãi suất thị trường liên ngân hàng

Gần đây, lãi suất tăng trở lại trên thị trường liên ngân hàng (thị trường 2), mặc dù nguồn vốn tiền gửi từ khu vực dân cư tiếp tục chảy mạnh vào hệ thống kể từ sau Tết Nguyên đán đến nay. Vì sao? 

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, sau khi “hạ nhiệt” trong nửa đầu tháng 2 thì lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đã tăng trở lại. Cụ thể lãi suất qua đêm vào ngày 10/2 rớt xuống mức thấp 1,55% thì đã tăng nhanh trở lại 4,91% vào ngày 20/2, mức tăng 3,36%.

Xu hướng tương tự cũng diễn ra ở các kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, cụ thể trong cùng kỳ hạn 1 tuần tăng 3,18%, từ mức 1,8% lên 4,98%, kỳ hạn 2 tuần tăng 2,95%, từ mức 1,92% lên 4,87% và kỳ hạn 1 tháng tăng 1,95%, từ mức 3,04% lên 4,99%.

Đây là những diễn biến rất đáng chú ý nếu nhìn vào sự tăng trưởng huy động vốn của các ngân hàng kể từ sau Tết, nhất là khi lãi suất huy động từ thị trường 1 (dân cư tổ chức) vẫn khá ổn định, ngoại trừ có sự tăng cục bộ lãi suất tiền gửi trung, dài hạn tại một số ngân hàng như Eximbank hôm 24/2 để tăng nguồn vốn trung, dài hạn nhằm cải thiện tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung, dài hạn.

Một số ý kiến cho rằng tỷ giá tăng nhanh gần đây đã làm suy yếu vị thế của VND, do đó nhà điều hành định hướng nâng lãi suất VND thông qua hút vốn trên thị trường mở (OMO) để gia tăng trở lại giá trị tiền đồng.

Theo báo cáo của Công ty Chứng khoán Bảo Việt, trong tuần từ 13/2 – 17/2, Ngân hàng Nhà nước đã hút ròng 36.541 tỷ đồng qua thị trường OMO. Việc Ngân hàng Nhà nước hút vốn ròng sẽ làm giảm mức độ dư thừa thanh khoản của hệ thống và có thể đẩy lãi suất VND trên thị trường 2 đi lên.

Trong môi trường thanh khoản hệ thống dồi dào, nếu lãi suất vay gửi giữa các ngân hàng quá thấp thì sẽ có xu hướng tăng nắm giữ đồng USD với kỳ vọng sẽ kiếm lợi khi tỷ giá USD/VND được điều chỉnh. Đây là điều đã diễn ra trong giai đoạn lãi suất trên thị trường liên ngân hàng ở mức thấp kỷ lục trong năm 2016, khiến trạng thái ngoại hối của các ngân hàng luôn ở mức dương cao và cũng nhờ đó Ngân hàng Nhà nước mua được một lượng lớn ngoại tệ để gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia lên mức hơn 40 tỷ USD.

Việc mua ngoại tệ và bơm một lượng lớn VND ra thị trường càng làm tăng mạnh lượng thanh khoản VND, khiến các ngân hàng càng dồi dào thanh khoản và càng đẩy lãi suất VND trên thị trường 2 xuống mức thấp. Vì vậy càng kích thích các ngân hàng tăng nắm giữ USD.

Tuy nhiên trong năm 2016 nhờ vào nguồn vốn FDI tăng mạnh, nguồn vốn đầu tư gián tiếp cũng tăng cao nhờ vào các thương vụ M&A, xuất siêu tăng, nguồn cung ngoại tệ đã được duy trì tốt từ dòng vốn tiền gửi USD chuyển sang VND trong khi cho vay ngoại tệ bị chững lại khiến tỷ giá luôn được giữ ổn định, ngoại trừ giai đoạn cuối năm sau cuộc bầu cử tổng thống tại Mỹ.

Ngược lại, nếu lãi suất VND trên thị trường liên ngân hàng tăng lên sẽ kích thích các ngân hàng đẩy mạnh bán ngoại tệ để lấy vốn cho vay, khi mà lúc này lãi suất cho vay VND giữa các ngân hàng cao hơn nhiều so với mức tăng tỷ giá kỳ vọng. Chính động thái này sẽ giúp tăng nguồn cung USD và từ đó ổn định thị trường ngoại hối, khi nguồn vốn USD từ các ngân hàng được bơm ra thị trường.

Việc tỷ giá ổn định trở lại gần đây sau khi tăng nhanh trong đầu tháng 2 tương ứng với diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng trở lại cùng thời điểm có thể giải thích cho luận điểm này.

Với nhập siêu tăng mạnh, lên mức 2,45 tỷ USD trong nửa đầu tháng 2 cũng gây áp lực lên cầu ngoại tệ trong nước trong cùng thời điểm. Trong khi đó, kỳ vọng FED sẽ tăng lãi suất trong cuộc họp vào giữa tháng 3 sắp tới cũng khuyến khích tăng dự trữ, đầu cơ đồng bạc xanh, nhất là khi đồng USD tăng trở lại.

Một vài ý kiến gần đây cũng cho rằng Ngân hàng Nhà nước cần sớm gỡ bỏ trần lãi suất USD và điều này cũng có thể kích thích trở lại việc nắm giữ USD. Trước những áp lực trên thì tỷ giá tăng nhanh trong nửa đầu tháng 2 là tất yếu. Tính đến ngày 27/2/2017, tỷ giá trung tâm USD/VND nằm ở mức 22.228 đồng, tăng 0,31% so với đầu năm.

Những diễn biến vừa qua cho thấy tỷ giá sẽ là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến mặt bằng lãi suất trong năm 2017. Việc vừa phải cân đối được lãi suất ổn định vừa phải kiểm soát tỷ giá sẽ là một trong những thách thức lớn trong điều hành của Ngân hàng Nhà nước trong năm nay, nhất là khi nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể bị chững lại, kiều hối sụt giảm, nguồn vốn vay ODA bị hạn chế và nhập siêu đang có dấu hiệu quay trở lại.

Nhà cung cấp và nhà phân phối: Cộng sinh hay đối đầu?

Trong tháng 1 và tháng 2/2017, Mobifone có chương trình khuyến mãi định kỳ vào thứ 6 hằng tuần khi khách hàng đến nạp thẻ tại các cửa hàng dịch vụ trực tiếp của nhà mạng nhằm đẩy mạnh doanh số. Bắt đầu từ năm ngoái, các kỳ khuyến mãi của Mobifone đã rất xa nhau (từ tháng rưỡi đến 2 tháng), hoặc xen giữa đó là vài kỳ khuyến mãi dành cho những ai nhận được tin nhắn từ tổng đài Mobifone, hoặc nạp tiền từ app MyMobifone.

Không như những hàng hóa, dịch vụ khác, đối với dịch vụ viễn thông di động, chỉ các thuê bao trả trước mới có khuyến mãi, còn trả sau thì không. Khi khách hàng nhận được các chương trình khuyến mãi ngày càng rời rạc như vậy thì càng có xu hướng sử dụng nhiều số SIM để hưởng các chương trình khuyến mãi từ các nhà mạng khác, nhưng vẫn giữ số Mobifone để người khác có cùng mạng liên lạc cho đỡ tốn tiền, hoặc “cố thủ”, chỉ khi có khuyến mãi mới nạp thẻ cào.

Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh không cân sức giữa các đại lý và nhà phân phối thẻ cào nhỏ lẻ với chính nhà mạng. Đến lượt các đại lý khi thấy khó đẩy hàng thì cũng “cố thủ” theo, không còn mạnh tay vung tiền gom thẻ cào.

Điều này cũng xảy ra ở một số ngành hàng tiêu dùng khác, khi bây giờ nhà sản xuất không chỉ trông chờ vào nhà phân phối mà cũng bán trực tiếp sản phẩm, khiến cho nhà phân phối với tiềm lực vốn không bằng nhà sản xuất, buộc phải bán dưới giá đề nghị để khỏi bị chôn vốn, nhằm quay vòng vốn nhanh hơn. Cho nên nhân viên bán hàng của nhà sản xuất chưa chắc đã dễ bán hàng hơn “dân sale” của nhà phân phối.

Do sức tiêu thụ không còn ào ạt như thời kỳ 2000 – 2007 (trước khi suy giảm kinh tế toàn cầu nổ ra năm 2008), bây giờ khách hàng phải cân nhắc kỹ trước mỗi lần chi tiêu, nên các nhà sản xuất nên ngồi lại với các nhà phân phối, đại lý để nhất quán những chương trình bán hàng, hoặc ngành công thương nên có những chương trình “kích cầu” vào những thời điểm nhất định trong năm, như chương trình “Black Friday” khá thành công khi tổ chức vào ngày 25/11 và 2/12 năm 2016 chẳng hạn.

>> Làm thế nào để tìm nhà phân phối?

Khi thâm nhập thị trường mới, nhà sản xuất rất cần nhà phân phối, 2 bên có thể ký kết phân phối độc quyền với thời hạn nhất định. Có thể nói, nhà phân phối có “quyền lực” có thể ép nhà sản xuất chiết khấu cao hơn, hay quyết định giá thành sản phẩm.

Ngược lại, khi nhà sản xuất có sản phẩm đã khẳng định được chất lượng cũng có thể mở rộng cửa hàng và xây dựng đại lý riêng, hạn chế phụ thuộc nhà phân phối, nhà bán lẻ. Khi nhà phân phối và nhà sản xuất có sự phối hợp đủ mạnh thì có thể kiểm soát thị trường, quyết định giá cả, tối ưu hóa lợi nhuận, đặc biệt đối với nhóm hàng tiêu dùng, nhóm hàng tiêu dùng nhanh như đồ ăn, thức uống.

Tóm lại, mối quan hệ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối là mối quan hệ cộng sinh, nhưng cũng có thể hợp tác trong giai đoạn đầu và cũng có thể là đối đầu do tình hình thị trường.

Điều đó có thể ứng với thực tế giữa Mobifone và các nhà phân phối hay bán lẻ thẻ cào hiện nay. Khách hàng vẫn có thêm sự lựa chọn, hoặc đợi SMS khuyến mãi hoặc đợi thứ 6 trực tiếp đến cửa hàng Mobifone nạp thẻ (dịch vụ này thường là kết hợp các điểm bán lẻ thiết bị di động, chăm sóc khách hàng) hoặc tải app của các nhà mạng nhắc lịch khuyến mãi và nạp thẻ trực tiếp qua app. Xu hướng này thu hút khá nhiều người trẻ và cũng có thể trở thành xu thế chung vì chỉ cần cài app và có liên kết ngân hàng hay ví điện tử là dễ dàng mua hàng.